1. Nhân sinh quan là gì?
Theo từ điển tiếng Việt, nhân sinh quan là hệ thống quan niệm về cuộc đời bao gồm lẽ sống, lý tưởng, lối sống… Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, nhân sinh quan là hệ thống quan niệm về cuộc đời, ý nghĩa và mục đích sống của con người.
Nói một cách đơn giản, nhân sinh quan là cách con người nhìn nhận cuộc đời hay cái đạo làm người của chúng ta. Nhân sinh quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, chi phối hành vi và các hoạt động của con người trong đời sống.
Việc nghiên cứu nhân sinh quan chính là nghiên cứu về tư tưởng, thái độ, hành vi của con người. Mỗi thời đại khác nhau thì con người sẽ có nhân sinh quan khác nhau vì nhân sinh quan luôn đồng hành với sự phát triển của xã hội.
2. Nhân sinh quan trong Triết học
Nhân sinh quan và thế giới quan thường bị sử dụng nhầm lẫn vì có nhiều sự tương đồng về khái niệm. Tuy nhiên, nhân sinh quan chỉ là một bộ phận của thế giới quan bao gồm các quan niệm về cuộc sống của con người như: lẽ sống, mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống…
Mỗi người đều có quan niệm riêng về cuộc sống gọi là nhân sinh quan tự phát. Các nhà tư tưởng đã khái quát các quan điểm này thành lý luận, tạo ra nhân sinh quan tự giác mang tính triết học.
Nhân sinh quan phản ánh sự tồn tại của xã hội loài người, thể hiện nhu cầu, lợi ích, khát vọng, hoài bão của con người trong mỗi chế độ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nhân sinh quan cũng có tính giai cấp.
Nếu nhân sinh quan phản ánh đúng khuynh hướng khách quan của lịch sử thì sẽ là nhân tố cải tạo xã hội mạnh mẽ. Ngược lại, nếu phản ánh không đúng thì sẽ cản trở xã hội tiến lên.
Ví dụ, chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển trong lịch sử nên có tác dụng cải tạo tự nhiên và xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ của con người và xã hội. Đó chính là nhân sinh quan cách mạng, khoa học của giai cấp vô sản, của con người mới trong chế độ chủ nghĩa xã hội.
>> Xem thêm: Khái niệm về giáo hội Phật giáo Việt Nam? Cơ cấu tổ chức của giáo hội Phật giáo Việt Nam?
3. Nhân sinh quan Phật giáo
Nhân sinh quan Phật giáo được hình thành và phát triển dựa trên tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng văn hóa Ấn Độ cổ đại trước Công nguyên, đồng thời xuất phát từ tấm lòng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn.
Nhân sinh quan Phật giáo là hệ thống quan điểm, quan niệm của đạo Phật về nguồn gốc, bản chất và cấu tạo con người, định hướng mục tiêu, thái độ sống và giá trị của con người nhằm hướng đến giải thoát con người khỏi bể khổ trầm luân.
Nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo tập trung vào 2 vấn đề chính cơ bản nhất là sự khổ não và sự giải thoát khỏi nỗi khổ. Khổ là sự tất yếu, sự luân hồi, muốn thoát khỏi khổ đau thì con người phải tu tâm dưỡng tính, tích công đức để tự mình thoát khỏi vòng luân hồi, nghiệp chướng.
Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả luân hồi, Đức Phật đã nêu ra Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên.
Tứ diệu đế là bốn chân lý giải thoát mà con người cần phải nhận thức bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
– Khổ đế là mọi nỗi khổ của con người trên thế gian, dù giàu hay nghèo, dù già hay trẻ… con người đều có nỗi khổ của riêng mình như ốm đau, bệnh tật, tuổi già, nghèo đói, cầu mà không được, yêu thương mà phải chia lìa…
– Tập đế là sự thật về nguyên nhân, bản chất đau khổ của con người, đó chính là sự vô minh, cội nguồn của tham – sân – si khiến con người tạo nghiệp và chịu quả Khổ.
– Diệt đế là tận diệt khổ đau, chấm dứt luân hồi sinh tử và đạt được cảnh giới giác ngộ, giải thoát gọi là Niết bàn tịch diệt.
– Đạo đế là con đường hướng đến giác ngộ, chấm dứt khổ đau và đạt được hạnh phúc chân thật do Đức Phật vạch ra.
>> Xem thêm: Vị trí và vai trò của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thập nhị nhân duyên là phép tu hành của Duyên giác thừa, chủ yếu quan sát mọi sự vật cho đến luân hồi đều do nhân duyên; nhân duyên hội họp thì gọi là sinh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thật vốn không có gì sinh – diệt cả.
Bao gồm: vô minh (u mê, không sáng suốt); hành; thức; danh sắc; lục nhập; xúc; thọ; ái; thủ; hữu; sinh; lão tử.
4. Quan niệm về con người:
Phật giáo cho rằng con người không do thượng đế sinh ra, cũng không do một đấng thiêng liêng nào tạo ra cả, mà con người là một pháp đặc biệt của vạn pháp. Con người bao gồm phần sinh lý, tâm lý, và là sự kết hợp của ngũ uẩn:
+ Phần sinh lý gồm “sắc” là thần sắc, hình tướng giới hạn trong không gian bằng xương, thịt, da, tạo bởi bốn yếu tố (tứ đại) là thủy, hỏa, địa, phong.
+ Phần tâm lý hay tinh thần, ý thức gồm thụ, tưởng, hành, thức, được biểu thị bằng bảy lĩnh vực tình cảm (thất tình) là ái, ố, nộ, hỷ, lạc, ai, dục. Phần tâm lý bao giờ cũng nhờ, dựa vào phần sinh lý (không có tinh thần, ý thức ngoài cơ thể vật chất). Con người cũng như vạn pháp khác của vũ trụ phải tuân thủ: sinh, trụ, dị, diệt và thực chất là giả hợp của ngũ uẩn, do vậy con người cũng chỉ là giả – “vô ngã”.
Con người khi chết không hết cũng chẳng còn (chấp đoạn). Phật giáo giải thích cái chết của con người sau chết bằng thuyết Nghiệp báo (karma) và luân hồi (samsara).
Nghiệp (Karma) theo truyền thống Ấn Độ cổ phải được hiểu là: Mỗi hành động là kết quả tất nhiên của những điều kiện có trước; là khuynh hướng của nhân thành quả (thiện thành thiện, ác thành ác); Là cái tâm linh cao hơn cái tự nhiên vốn có của con người (con người là bộ phận của tự nhiên và là bộ phận cao hơn có quan hệ xã hội); Là tự do của con người bằng sự hợp nhất tự do của linh hồn với thượng đế (Brahma); Là ánh sáng tâm linh bên trong của con người (Đức sáng tự mình). Ánh sáng tâm linh này có phản chiếu ánh sáng tối cao hay không là chuyện bất khả tri; cách truyền nghiệp là tâm truyền (muốn là được).
Nghiệp theo Phật giáo phải được hiểu là nghiệp theo kiểu truyền thống ấy nhưng có đôi điểm khác biệt như: Bí truyền và hành động như một định luật nhân quả khắt khe (là nhân quả), có thể hiểu như định mệnh trong các tôn giáo khác. Nghiệp của Balamôn là sự tái sinh của một Atman vào một trong sáu cõi [(thần tiên), Atula (thần), nhân (người), địa ngục, ngạ quỷ (ma đói), súc sinh (thú vật)]; Nghiệp của Phật là một dây liên tục các nghiệp riêng – chung, nó không là định mệnh mù quáng, không là tự do muốn gì được nấy, mà có luật nghiệp được định bởi trật tự của tự nhiên và tinh thần. Khi nói đến nghiệp, Phật giáo chỉ chứng minh con người có ý chí có khả năng làm chủ được nghiệp trong khi phải tuân thủ luật nghiệp. Khi giác ngộ với nghiệp không còn tác dụng. Nghiệp là sức mạnh ngấm ngầm thúc đẩy từ bên trong, là tiềm thức của con người mà muốn nhìn thấy nó phải nhất tâm thiền định.
Nghiệp có phúc nghiệp, tội nghiệp. Nghiệp cũng có nghĩa là tạo tác, việc làm. Tam nghiệp góp chung thành một sức mạnh gọi là nghiệp của người đang sống: bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Khi chết có một trong bốn nghiệp sau chi phối mà quen gọi là dẫn nghiệp: cực trọng nghiệp (cơ thể thiện hoặc ác); cận tử nghiệp; tập quán nghiệp; tích lũy nghiệp.
Trong vòng tam giới (dục, sắc, vô sắc), vạn pháp đều chịu 4 nghiệp là: nghiệp đen (ác), nghiệp trắng (thiện), nghiệp đen và trắng (có thiện có ác), nghiệp không đen cũng không trắng (nghiệp vô vi của hàng đắc đạo – nghiệp vô lậu). Ngoài ra, tùy hoàn cảnh còn có nhiều loại nghiệp khác.
– Nghiệp (Karma): Cần hiểu nghiệp theo các nghĩa 1) Là nhân quả, là từ nhân đến quả (có thể quan niệm như định mệnh). Có nghiệp phước, có nghiệp tội. Do nghiệp mà có các hạng: tiên, thần, người, ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh. Có biệt nghiệp (riêng), tổng nghiệp (chung). 2) Nghiệp cũng có nghĩa là tạo tác, là việc làm (thân, ý, khẩu).
Có hắc nghiệp (đen, ác); bạch nghiệp (trắng, thiện); hắc nghiệp bạch nghiệp (đen, trắng); bất hắc, bất bạch nghiệp (giác ngộ). Là tạo tác nghiệp, tạo mệnh nghiệp (tam nghiệp), trước tác, sau là thọ nghiệp. Vậy có nghiệp ách, nghiệp ảnh, nghiệp báo, nghiệp cản…
Nghiệp lực: là sức nghiệp, là hành nghiệp đưa ta đến tiên, thần, người; cũng có thể đưa ta đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Nghiệp quả: Là quả báo, gieo gì được đó (cũng được hiểu là nghiệp báo).
Cận tử nghiệp: Không phải chỉ tu khi thân còn khỏe mạnh mà phải luôn tu giữ cho thân, ý, khẩu lành, tịnh, chính từ lúc còn trẻ trung cho đến khi chung cuộc kiếp người. Phật giáo cũng quan niệm, có thể suốt cả cuộc đời chưa tu nhưng đến khi lâm chung, nếu niệm Phật, tưởng Phật, nhờ Phật thì cũng sẽ được Phật giải thoát. Nếu không thì nghiệp có thể dẫn ta đến một trong 6 cõi.
– Vạn pháp đều do thức mà thành. Thiện, Ac, Hòa bình hay Ô trọc đều do tâm mà ra. Tâm có hai loại: 1) Tâm sở là những điều sở hữu của tâm, tình ý ở trong tâm (tham, sân, si, mạn…). Các cảm giác nẩy sinh do lục căn chạm với lục trần. 2) Tâm vương là Tâm chủ của các cảm giác các tình ý, chỉ huy điều khiển các tâm sở.
Với thuyết “nhân quả” và “Nghiệp – Nghiệp báo”, Phật giáo cho rằng không có một hành vi nào dù thiện, ác, to, nhỏ, của con người, dù được bưng bít che đậy mà tránh khỏi “quả báo”. Các sách “Tu tâm”, “Nghiệp dẫn luân hồi trong lục đạo” nói rất rõ về điều này.
– Luân hồi: luân là bánh xe quay tròn, hồi là trở về. Luân hồi là nói đến vạn pháp trong tam giới luôn luân chuyển không ngừng theo chu kỳ: Thành – trụ – hoại – không (sinh – trụ – dị – diệt hoặc sinh – lão – bệnh – tử).
Đối với con người có thân thì có nghiệp, có nghiệp thì vào luân hồi để trả nghiệp báo.
Ba giới được hiểu theo 3 cách là vật lý, sinh lý, tâm lý; dục giới, sắc giới, vô sắc giới; thảo mộc, động vật và quỷ thần.
5. Quan niệm về đời người thể hiện trong Tứ Diệu Đế.
“Tứ diệu đế” là nội dung chủ yếu về nhân sinh quan Phật giáo – luận điểm về giải thoát và cứu khổ – Niết bàn.
– Khổ đế: tất cả những cái có, vốn là tồn tại đều khổ. Đau khổ là quá trình tồn tại. Đời là bể khổ “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn biển”. Những cái khổ tóm lại trong bát khổ : Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
– Tập đế (nhân đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Nguyên nhân của đau khổ nằm trong trần tục là vô minh, là dục vọng. “Thập nhị nhân duyên” là nguyên nhân cho cái tồn tại kéo dài không ngừng và liên tục trong vòng quay vĩnh cửu. Mười hai nguyên nhân ấy là: Vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử đều gây khổ. Duyên “lão-tử” vừa là kết quả cuối của một quá trình, nhưng cũng là nguyên nhân của vòng luân hồi mới từ vô minh của cuộc đời khác. Tất cả 12 nguyên nhân này quan hệ ràng buộc lẫn nhau, dẫn tới cay đắng của cuộc đời.
– Diệt đê: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được. Có thể chấm dứt được đau khổ, chấm dứt được luân hồi nhờ đạt trạng thái niết bàn.
Niết bàn phải được hiểu với những nghĩa sau:
1) Là cảnh trí của nhà tu hành đã diệt sạch các phiền não và tự biết rằng, mình chẳng còn luyến ái; 2) Là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não; 3) Là đã dứt nhân quả sinh tử, dứt hết nghiệp, luân hồi; 4) Là vô vi, trống không, lặng lẽ, yên ổn chấm dứt cái tai hại của sinh tử; 5) Là không sinh ra những khổ quả nữa; 6) Là không nhân duyên tạo tác nghiệp lầm (vô vi); 7) Là yên ổn, khoái lạc, hết khổ (an lạc); 8) Là lìa khỏi phiền não (giải thoát).
– Niết bàn theo Phật giáo cũng có những nghĩa như thế, nhưng cần phải được hiểu là:
+ Cõi tĩnh, tịch, cực lạc siêu không gian, siêu thời gian (hư không, thế giới bên kia);
+ Đã diệt trừ hết mọi dục vọng, thù ghét, mê lầm đạt đến sự giải thoát tuyệt đỉnh, đồng nhất Niết bàn, Pháp, Phật (Niết bàn có ngay trong hiện thực);
+ Là thế giới đại đồng, bình đẳng, bac ái (khát vọng về tương lai).
Diệt đế cũng là niết bàn. Muốn đạt niết bàn phải diệt đế, phải chứng quả “duyên giác”. Diệt đế trước hết là diệt vô minh. Sai lầm của Phật giáo là coi trong vô minh bao gồm cả việc thừa nhận sự tồn tại thực của con người và của vạn pháp.
Ở đây trong bản thể luận, Phật giáo cứu cánh con người không phải bằng đấu tranh giai cấp, bằng cách mạng mà bằng diệt dục. Để đạt được trạng thái giải thoát, Phật giáo đã “đặt thế giới lầm lỗi và trần tục, tức thế giới thường ngày và tồn tại kinh nghiệm đối lập với sự yên tĩnh vĩnh hằng đạt được, bằng cách giảm bớt dần nguyên nhân sự tồn tại trần tục”.
Trong lý thuyết về giải thoát của Tiểu thừa và Đại thừa có đôi chút khác nhau. Chúng sinh – theo Tiểu thừa – chìm đắm trong bể khổ sẽ đến nơi yên tĩnh và ai cũng muốn hướng tới trạng thái Alahan (vị thánh đã đạt niết bàn). Nhưng muốn tới trạng thái ấy, mỗi cá nhân tự phấn đấu mà đi. Đức Phật chỉ vạch ra mục đích và hướng dẫn con đường. Các vị La Hán không quan tâm và không thể quan tâm tới mọi người và không ai có thể giúp được, mỗi người tự tạo ra nghiệp của mình, tự đạt tới niết bàn. Với Đại thừa, Alahán được thay bằng Bồ Tát. Bồ Tát chứng quả niết bàn nhưng khước từ bước vào trạng thái yên lặng ấy, các ngài lại thường quan tâm giúp chúng sinh khác cũng đạt tới trạng thái như vậy. Theo Đại thừa, mọi chúng sinh đều liên kết với nhau bởi có cái chung là tâm Phật. Tất cả chúng sinh đều là Bồ Tát, là Phật vị lai. Mỗi chúng sinh đều ẩn dấu một phần của cái chung đó: Đức Phật tuyệt đối duy nhất. Bồ Tát tuy giúp đỡ mọi người khi mình đã được giải thoát, nhưng không làm cho họ đắc đạo được, chỉ Đức Phật mới làm được điều đó. Nơi nào thờ Bồ Tát thì đó là Phật giáo Đại thừa.
– Đạo đế: Là những con đường chân chính dẫn đến sự giải thoát, là những con đường tu đạo. Thực chất của những con đường này là diệt “vô minh”. Có tám con đường gọi là “bát chánh đạo”:
+ Chính ý: Tư duy, suy nghĩ đúng.
+ Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính.
+ Chính kiến: Có sự hiểu biết đúng đắn, nhất là hiểu biết đúng đắn về Tứ diệu đế.
+ Chính nghiệp: Có nghiệp tà và nghiệp chính. Nghiệp tà thì tu sữa, cải tạo. Nghiệp chính thì giữ cho vững, Thân, khẩu, ý nghiệp đều phải giữ cho chính, cho thanh tịnh.
+ Chính mệnh: Sống trung thực,cư xử đúng đắn, tiết chế dục vọng và giữ nghiêm giới luật.
+ Chính tinh tiến: Thường xuyên tích cực tiên kiên truyền bá chân lý của Phật. Hoằng dương Phật pháp chân chính.
+ Chính niệm: Thường giữ vững và nhớ Phật, niệm Phật.
+ Chính định: Tĩnh lặng tập trung và suy nghĩ về “tứ diệu đế”, “vô ngã”, “vô thường” và “khổ”.
Tám con đường ấy qui về thực hiện ba nguyên tắc: Giới – Định – Huệ.
– Giới: Giữ những điều kiêng kỵ để con người trở nên trong sạch, làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh.
– Định: Làm cho thân, tâm trụ, định, an lạc không bị tán loạn, không bị chi phối bởi hoàn cảnh. Định gồm có Chỉ và Quán. Nhờ Chỉ mà mọi nghiệp dừng lại và ngưng đọng. Nhờ Quán mà trí tuệ minh triết phát minh.
– Huệ (tuệ): Nhờ định mà trí tuệ bát nhã phát sinh, lúc đó con người liền vượt qua bể khổ đạt đến bờ giải thoát (giác ngộ, niết bàn, quốc độ, tĩnh lặng v.v.).