Các từ mà tất cả chúng ta thời buổi này cho là “thô tục”, nếu như với ông bà tổ tiên ta chúng mang đầy ý nghĩa sâu sắc về lý thuyết, thiên hà quan và nhân sinh quan, nói một cách khác các từ này mang ý nghĩa sâu sắc của Dịch lý.
Bài Viết: Buồi là gì
Vì đây là 1 bài khảo cứu về ngôn từ và Dịch học, nên người sáng tác xin phép viết các từ thô tục này “nguyên con” (nguyên chữ). Xin các gia đạo đức tạm gác cái bầu đạo đức sang một bên khi đọc loạt bài này kẻo không sẽ nguy hiểm tới sức khỏe (đó chính là khuyến nghị của 1 thầy thuốc).
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NỮ
Trước hết xin nói về các từ chỉ bộ phận sinh dục phái đẹp vì thế gới loài người bắt đầu từ mẫu hệ và hư vô trung tính chuyển hẳn sang thiên hà âm trước. Việt ngữ có các từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, dánh, ke, ghe, nốc, dốc, đốc v. v…
NƯỜNG
Nường là tiếng cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ nhìn rõ qua từ kép “nõ nường”. Nõ là nọc là cọc là cặc (xem bên dưới). Nường là nương, là nang nghĩa là cái bao, cái túi, cái bọc. Nường là nòng, nõ là nọc. Nõ nường là nọc nòng dương âm là càn khôn. Ta cũng luôn tồn tại từ nõn nường hàm nghĩa chỉ bộ phận sinh dục:
Ba mươi sáu cái nõn nường,
Cái để đầu giường, cái gối đầu tay.
(ca dao).
Thật ra nõn nường chỉ bộ phận sinh dục gái tơ với nõn là non, trẻ, mềm mịn như vải phin nõn, trắng nõn trắng nà. Từ nõn nà với nà là ná, nạ (mẹ) nàng, nường. Nõn nà là nường non, gái tơ, cái nường trắng nõn, trắng nà. Nõn nà là nàng đẹp tương đồng với mị nương đây là Mã Lai-Java ngữ nona, nàng.
LỒN
Lồn là lồng, lòng, nòng, nàng, nường, nang nghĩa là cái bao cái túi, cái bọc.
Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Lồn contact với lồng nhìn rõ trong Anh Pháp ngữ: vagina, vagin (âm đạo) contact với invagination (lồng vào nhau) như intestinal invagination (chứng ruột lồng) còn sống sót tên là intestinal intussusception. Lồng còn sống sót có nghĩa là vật đựng, sử dụng để “giam giữ” chim hay gà. Tại 1 diện, chim biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam (xem bên dưới) và gà trống cũng như vậy. Anh ngữ cock là gà trống và cũng chính là từ chỉ bộ phận sinh dục nam. Anh ngữ “cock” có gốc coc-, đây là Việt ngữ cọc, cặc. Rõ nét cái lồn, cái lồng sử dụng để “giam giữ” chim và gà của phái mạnh. Với có nghĩa là túi, bao, bọc, lồn tương xứng với Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina (âm đạo). Theo v=b như víu = bíu, vagin, vagina có gốc vag- = bag (túi, bao). Anh ngữ vaginate nghĩa là có bao, có túi. Với có nghĩa là lồng, lòng, dạ, lồn contact với Ba Lan ngữ lono (‘bosom’, ngực, lòng; lap, đùi, chỗ trũng, chỗ lõm, với Phạn ngữ yoni (vulva, âm hộ) (theo qui luật l=d=y). Phạn ngữ yoni contact với yauna (dạ con), yauna đây là yoni + a. Ta nhìn rõ trong tiếng Việt, phái đẹp nàng, nương, nường gọi theo bộ phận sinh dục nữ nường, lồn y hệt như các tộc khác của Ấn Âu ngữ như Phạn ngữ yoshana, yosha, yoshit (thiếu nữ) là gọi theo yoni. Ý ngữ donna, Tây Ban Nha dona (n có dấu ngã), Bồ Đào Nha dona, v. v… nghĩa là lady (bà, thiếu nữ, phái đẹp) toàn bộ tổng thể có gốc don-, theo d=l như dần dần = lần lần, don- = lồn. Ở Tỉnh Thái Bình có loài sò hến gọi bằng con don. Món canh don ở Tỉnh Thái Bình rất nhiều người biết đến. Sò hến chứa một nghĩa sử dụng chỉ bộ phận sinh dục phái đẹp. Con don là con yoni con lồn.
Cũng xin nói thêm ở đó chính là vì có biến âm d=l nên ta có từ nói lái đôn lò.
KE
Trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ “chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay thiếu nữ”. Về phía phái đẹp ke đây là kẽ như kẽ nứt, sơ hở, kẽ tay, xem thêm hơi vào ke thành khe. Ke, kẽ, khe là các từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ, Anh ngữ bình dân gọi bằng slit. Cũng trong Từ Điển Việt Bồ La có tứ dánh, dắnh chỉ lồn. Đây đây là từ dãnh, rãnh chỉ cái khe, cái mương, cái máng.
GHE
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như cảm thấy qua câu ca dao:
Khôn thì ăn cháo, ăn chè,
Dại thì ăn đếch, ăn đác, ăn ghe, ăn đồ.
(ca dao).
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như cảm thấy qua cách biếu xén quà cáp. Muốn chửi rủa ai, vào dịp giỗ tết đem biếu hai quả cau và ba chén chè. Hai quả cau “nang” chỉ hai cái “trứng” của phái mạnh và ba (chén) chè nói lái lại là ghe bà. Theo chuyển hóa k= gh như ké = ghé, kê = ghế (cái đòn kê để ngồi là dạng nguyên thủy của cái ghế thời buổi này), ta có ke = ghe. Ghe là ke là kẽ, là khe. Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ nên ta có từ “ghế” khẩu ca trại đi của từ “gái”. Con ghế có ghe. Nguyên thủy cái ghe làm xuất phát điểm từ 1 thân cây khoét rỗng (dug-out) có hình cái khe. Chính vì như vậy mà thuyền độc mộc gọi bằng cái ghe. Phi Luật Tân Tagalog ngữ gay”là ghe biến âm với gái, theo g = c, gay = cây. Rõ nét ghe, gay là thuyền độc mộc khoét xuất phát điểm từ 1 khúc cây và contact đến gái, bộ phận sinh dục nữ. Tại đây ta rất có khả năng sử dụng tiếng Việt để phân tích và lý giải nguyên ngữ của từ Anh ngữ she (nàng, nường, phái đẹp, đại danh từ ngôi thứ ba số ít, giống cái). She contact với Việt ngữ chị, với Quảng Đông ngữ chế (nên đừng quên Quảng Đông là phần đất cũ của Bách Việt). Dùng qui luật c = k = s như cắt = sắt, khe = she. She contact với khe, ghe. She có khe, có ghe ! Một điểm cũng cần phải nhắc đến là Việt ngữ ghe cũng luôn tồn tại có nghĩa là thuyền tàu (ship). Như đã nói, ghe biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ mang tính chất thuần âm nên có thể nói là “cái ghe” chứ không bao giờ nói “con ghe”. She gần âm với ship và ship cũng luôn tồn tại giống cái phải sử dụng she thay cho ship.
Xin bước ra bên ngoài lề nội dung bài viết để kể một mẩu truyện lúc tôi đi tuần du hải dương (sea cruise). Trong một trong những buổi gặp mặt thuyền trưởng, một khách tham quan hỏi vị thuyền trưởng là tại sao ship có giống cái và nói là she. Vị thuyền trưởng chất vấn là những người dân đi biển coi con tầu, chiếc thuyền như 1 người đẹp, một người yêu, họ sống chết theo con tầu, chiếc thuyền. Tôi có nói bé dại với vị thuyền trưởng là trong Việt ngữ ghe ship nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Ông ta há hốc miệng. Bằng chứng là Ainu ngữ của thổ dân ở Nhật có từ chip là ghe thuyền cũng luôn tồn tại nghĩa lóng là bộ phận sinh dục nữ (xem bên dưới).
NỐC, DỐC, ĐỐC
Nốc là cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Thời nay chỉ thuyền bé dại, còn sử dụng ở miền bắc bộ Trung Việt:
Ăn thì cúi chốc, kéo nốc thì than.
(Tục ngữ).
Ăn thì cắm đầu xuống ăn, còn kéo thuyền thì than.
Hay
Một trăm chiếc nốc chèo xuôi,
Không tồn tại chiếc mô chèo ngược, để tôi gởi lời viếng thăm.
(Hát đò đưa Nghệ Tĩnh).
Hay
Đêm khuya thắp ngọn đèn chai,
Quen o nốc đáy, ăn hoài cá tươi.
(ca dao).
Cũng cần hiểu rõ nốc ở bên dưới nước nên contact tới nước. Nốc còn sống sót có nghĩa là uống như nốc nước, nốc rượu. Nốc biến âm với nác, nước, núc. Nguyên thủy nốc cũng đã làm xuất phát điểm từ 1 thân cây khoét rỗng. Nốc contact với Anh ngữ nog (cái chốt bằng khúc cây) log (thân cây). Nốc là ghe cũng luôn tồn tại có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Nốc contact với An ngữ nook (chỗ lõm, “xó” nhà, chỗ lõm sử dụng làm chỗ ngồi ăn gần phòng bếp). Theo n=l, nốc = lốc, lốc cũng chỉ bộ phận sinh dục như cảm thấy qua câu ca dao:
Cô lô cô lốc,
Một nghìn ghính ốc đổ dồn vào lồn cô.
Thật ra phải viết là “cô lô cô nốc” mới đúng. Từ hiện kim lốc là dạng nam hóa của nốc (hệt như lõ của nõ) không có ý nghĩa. Như vậy nguyên thủy nốc là thuyền độc mộc. Cổ ngữ Việt cũng luôn tồn tại từ dốc, đốc chỉ thuyền. Trong Từ Điển Việt Bồ La có từ dốc chỉ cơ quan sinh dục thiếu nữ. Theo n = d như này = đây, ta có nốc = dốc, đốc. Đốc cũng chỉ cơ quan sinh dục thiếu nữ như cảm thấy qua từ mồng đốc chỉ hạt tình (clitoris) (1). Mồng đốc là cái mồng thịt ở cái đốc, cái nốc phái đẹp.
Như vậy ta cảm thấy một đội chỉ bộ phận sinh dục nữ qua các từ nghĩa là ghe, nốc gọi điện liên lạc với nước mang tính chất thái âm, thuần âm. Trong cả từ đò nhiều khi cũng rất được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ như cảm thấy qua câu ca dao:
Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò rách rưới anh mò thuyền nguyên.
Từ đò gần âm với đồ. Từ đồ nghĩa là ông đồ nho và cũng luôn tồn tại có nghĩa là bộ phận sinh dục như cảm thấy qua câu thơ của 1 nhà thơ cổ chế riễu hai ông nhà nho:
Hai đứa tranh nhau một chiếc đồ!
Đò biến âm với đỏ. Đỏ cũng luôn tồn tại một có nghĩa là con gái, bộ phận sinh dục nữ như cảm thấy trong câu hát:
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ.
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá…
Cái đỏ nếu như với thằng cu, “đỏ” nếu như với “cu”.
Đò cũng biến âm với đó, dụng cụ bắt cá có hình túi cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ như cảm thấy qua câu tục ngữ:
Đó rách rưới ngáng chỗ.
Ý nói các bà xã có “này đã rách rưới” nên nơi trưng bày ngáng chỗ khiến các ông xã đã hết mò đc “thuyền nguyên”. Cái hay nữa là “đó” cũng luôn tồn tại có nghĩa là “ấy”. Cái đây là cái ấy.
Điều rất hấp dẫn là không chỉ các từ cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ còn sống sót có nghĩa là ghe, nốc mà trong ngôn từ của các người Ainu (Hà Di), thổ dân sống ở nước Nhật có từ chỉ bộ phận sinh dục nữ cũng luôn tồn tại có nghĩa là ghe, nốc. Ainu ngữ chip chỉ ghe thuyền. Ta cảm thấy trông rất rõ ràng chip contact với Anh ngữ ship (ghe thuyền, theo c=s). Không những thế Ainu ngữ chip cũng sử dụng như 1 tiếng lóng chỉ âm đạo: “chip, a slang word for the vagina” (Rev. John Batchelor, Aini-English-Japanese Dictionary, Tokyo, 1905). Người cổ Việt đã gặp người Ainu “trong phòng the” cách đây hàng mấy ngàn năm. Cần phải biết là cái nốc, cái độc mộc rất có khả năng đi khắp bốn biển sang tới tận Madagascar (thời buổi này thuyền độc mộc còn sử dụng nhiều ở hòn đảo này, ngôn từ Magdagascar contact với tiếng Mã-Nam Dương và Nam Á) thì thuyền độc mộc hay cái “nốc” của phái đẹp cổ Việt sang tới đất nước Nhật cũng chính là chuyện không tồn tại gì đáng kinh ngạc cả.
Tất nhiên, không chỉ có thế còn sống sót các tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục nữ. Chỉ xin nhắc đến một từ đại trà phổ thông đặc biệt là từ lá đa.
LÁ ĐA
Lá đa chỉ bộ phận sinh dục nữ cảm thấy qua câu ca dao:
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Như đã phân tích và lý giải ở chương Giống Đực Giống Cái trong Tiếng Việt Huyền Diệu, miền Bắc gọi bằng cây đa trong khi Trung Nam gọi bằng cây da. Từ da của Trung Nam theo duy âm, nòng chứa một có nghĩa là cái túi cái bao, cái bọc thân người như da người, da trời. Thái ngữ nang là da. Với có nghĩa là túi, bọc, nang nên lá đa là lá nường, là lá nàng, lá nòng, là lồng, lồn.
Về ngôn từ học, lá đa theo duy dương, nọc nghĩa là lửa, mặt trời, đỏ.
Như vậy lá đa theo duy dương là lá trời, lá đỏ (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Như trên ta đã nhìn thấy đỏ cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái đẹp như “con đỏ ẵm em”. Lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ chính vì vậy lá vông cũng sử dụng chỉ bộ phận sinh dục nữ vì vông biến âm với vang nghĩa là đỏ. Đỏ biến âm với đẻ, Phạn ngữ ja là đẻ cùng âm với Việt ngữ da, đa. Lá đa, lá vông rất có khả năng hiểu là “lá đỏ”, “lá đẻ”. Lá vông chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái đẹp nhìn rõ qua tục mai táng của VN:
Cha gậy tre, mẹ gây vông.
Khi cha chết con trai chống gậy tre. Như đẵ biết tre là cây “que”, loài thảo mộc thẳng như cái que không tồn tại cành nhánh lớn. Que biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, phái mạnh chính vì vậy mà khi cha chết con trai phải chống gậy tre là vậy. Trong lúc đó lá vông là lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái đẹp nên lúc mẹ chết con trai phải chống gậy vông.
Không những thế về dáng dấp lỗ sinh dục phái đẹp cũng tương tự như lá đa. Hình lá đa chỉ lỗ sinh dục phái đẹp còn cảm thấy trông rất rõ ràng trong gốm cổ Moche của Peru (Gốm Tình Dục Peru Cổ).
Gốm mô tả bộ giống phái đẹp tuân theo khung hình học, người nữ hình Mẹ Đời ngồi ở tư thế sinh con, hai tay giơ lên phía đầu, nằm phí trong Trứng Vũ Trụ (ở chính giữa), hình nòng O (bên trái) và hình lá đa (ở phía bên phải), Bảo Tàng Viện Larco (ảnh của người sáng tác).
Lá đa, lá vông, lá mơ đều phải sở hữu dáng dấp giống nhau chính vì vậy “hiện thực” không dừng lại ở đó, lá mơ lông cũng sử dụng chỉ bộ phận sinh dục nữ.
Không chỉ có vậy ông bà tổ tiên ta chọn lá đa, lá da và từ lá đa, lá da đc dùng đại trà phổ thông hơn các thứ lá khác vì cây đa, cây da là cây thờ, cây rất thiêng, Cây Đời (Tree of Life), Cây Vũ Trụ (Cosmic Tree) ra đời thiên hà muôn chủng loài. Người thiếu nữ đầu tiên của loài người hay Mẹ Đời của truyền thuyết thần thoại Mường Việt cổ là Dạ Dần ra đời xuất phát điểm từ 1 cây si, cùng họ với cây đa (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Cái lá đa của cô nàng Việt là 1 thứ lá “thiêng liêng” chính vì vậy tục thờ “lá đa” kể riêng và thờ nõ nường, thờ dâm thần của các người cổ Việt theo mẫu hệ là chuyện dĩ nhiên.
THÌ LA, THÌ LẨY, THÈ LE, TÈ LE
Xin nhắc đến một từ chỉ bộ phận sinh dục nữ rất kín đáo không người nào biết nghĩa. Ta có bài đồng dao nói đến con gái:
Thì la thì lẩy,
Con gái bẩy nghề,
Ngồi lê là 1,
Dựa cột là hai,
Ăn quà là ba,
Kêu ca là bốn,
Trốn việc là cung thời gian,
Hay nơi trưng bày là sáu,
Láu táu là bẩy.
Thì la thì lẩy là gì? Xin thưa bài hát này nói đến “con gái” nên thì la, thì lẩy nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Tiếng bình dân bộ phận sinh dục gọi bằng cái “thè le” , “tè le” như cảm thấy qua câu nói “dập cái thè le”, “cái tè le”. Mường ngữ có hai từ thim lớ (hay “xiêm rỡ”) chỉ người yêu cùng âm với thì la. Thì la, thì lẩy, thè le ruột thịt với Mã Lai ngữ *tila, tilay, female genital, tộc Kelantan Borneo teli, vagina, Balinese teli, vulva và Phi Luật Tân Tagalog ngữ tilin, vagina. Tộc Gorontalo (WMP; Pateda 1977) tele, ‘vagina’ = tè le. Trong lúc đó gốc til nghĩa là hạt tình, mồng đốc, hột le, cái thè le (clitoris): tộc Bare’e (WMP; Adriani 1828) tile, ‘clitoris’ = (hột) le’, thè le, thè lè; tộc Samoan (OC; Milner 1966) tela (not in decent use), ‘clitoris’ = thè le. Tôi gọi bằng ‘hạt tình’ vì gốc til cùng âm với ‘tình’ và “hạt’ tương xứng ‘với “hạt” dẻ rừng (glans) tức qui đầu của phái mạnh. Về phương diện khung hình học hạt tình, hạt til clitoris = hạt dẻ glans.
Ông đồ nào là người sáng tác làm bài đồng dao này cho con nít hát quả thật là 1 ông “đồ thâm” nho, một ông đồ “nho nặng” (nhọ), đồ này rất “đen” và rất “nhọ”. Cũng cần hiểu rõ là bài đồng dao này rất phổ biến ở miền Bắc chính vì vậy chưa hẳn chỉ có Trung Nam có contact với Nam Hòn đảo như Mã- Phi Luật Tân mà miền Bắc cũng luôn tồn tại contact.
NU NA NU NỐNG
Ta cũng thường nghe trẻ con hát bài đồng dao:
Nu na nu nống,
Cái bống nơi trưng bày trong,
Con ong nơi trưng bày ngoài. . .
Như đã giải nghĩa ở chương Dịch Học trong Tiếng Việt Huyền Diệu, na là 1 tiếng cổ Việt nghĩa là nà (ná, nạ là mẹ), nàng, nang, nường như nõn nà = nõn nường (cái nà, cái nường trắng nõn). Cổ Việt nống là cái nọc để chống, để nâng vật gì lên. Na và nống là nường nõ, nòng nọc. Na là nà, là nàng, là nường là nòng thuộc dòng là nước nên đi với câu hát thứ nhì có con cá bống, còn nống là cọc là nọc nên đi với câu thứ ba có con ong là loài có nọc (“ong non ngứa nọc”). Hai câu sau phân tích và lý giải nghĩa của hai từ cổ ‘na” và nống”. Còn từ “nu” có nghĩa là gì? Nu biến âm với neo, néo, đeo, đéo với đu, đụ. Nu na nu nống hiển nhiên là “đu na đu nống” là làm tình. Ông đồ nào tạo nên sự bài đồng dao này cũng chính là loại đồ thâm.
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NAM
Việt ngữ có các từ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ, lõ, ke, que, buồi, cặc, chông, chim, cò, cu v. v…
Nhìn tổng thể các từ chỉ bộ phận sinh dục nam nghĩa là “vật nhọn” như nọc, cọc, que, roi, dùi…
NÕ
Tiếng cổ Việt nõ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ nường (nọc nòng). Nõ là cây cọc, nọc như đóng cọc mít cho mau chín gọi bằng đóng nõ mít. Nõ nam hóa thành lõ. Trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ “lõ”: ‘làm dương vật cương lên như khi loài vật giao cấu. Blỏ cùng một nghĩa’ và có từ “lô”, “con lô”: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Hiển nhiên lõ, lô là biến âm của nõ. Lõ trong tiếng Việt hiện kim chỉ vật gì đâm ra như cọc nhọn ví dụ mũi lõ, cặc lõ hay lõ cặc. Có phương ngữ nói là cặc lỏ (dấu hỏi). Theo l=n, lỏ = nỏ, vật bắn mũi tên (một thứ nọc, cọc nhọn). Thời cổ con người dùng cây nõ, cây cọc nhọn đâm quái vật mải sau đây mới sáng tạo ra cây nỏ, cây ná bắn mũi tên. Ta cảm thấy cây nõ đẻ ra cân nỏ, cây ná.
Tại đây ta cảm thấy lõ (dấu ngã) và lỏ (dấu hỏi) theo hai cách nói và viết với hỏi ngã khác biệt của hai phương ngữ khác biệt đều đúng cả, chỉ có từ này cổ hơn từ khác mà thôi. Chính vì như vậy trong Việt ngữ vùng này nói theo âm dấu hỏi vùng kia nói theo âm dấu ngã chưa phải ai đã đúng ai sai. Tất cả chúng ta phải chờ cho đến lúc chứa một hàn lâm viện VN quyết định chọn viết theo dấu nào để sử dụng trong pháp ngữ Việt thì khi ấy ta đem sử dụng giữa những viết theo học viện chuyên nghành (academic). Giả dụ các ông học viện chuyên nghành sĩ (hàn lâm viện sĩ, viện sĩ) hỏi cách nhìn tôi chọn cách viết theo dấu ngã hay theo dấu hỏi, thì tôi chọn viết theo lõ (dấu ngã) nhờ vào các lý lẽ sau này:
./ gốc nõ (cây cọc) cổ hơn nỏ (vật bắn cọc nhọn) như đã nhắc đến ở trên cây nõ đẻ ra cây nỏ.
./ theo hình thức cứu trí nhớ về hỏi ngã mà tất cả chúng ta thường nghe nhắc đến là “(Chị) Huyền ngã nặng, hỏi sắc (thuốc) không?” thì dấu ngã (lõ) đi với dấu nặng (cặc).
./ta thường viết mũi lõ rồi thì viết cặc lõ cho nó thuận chiều cùng với nhau.
NỌC
Heo nọc là heo đực.
Xem Ngay: Validate Là Gì – định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích
CỌC
Cọc chỉ bộ phận sinh dục nam như cảm thấy qua thơ Hồ Xuân Hương:
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(vịnh Quả Mít).
Hay
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
(vịnh Cái Đu).
Anh ngữ cock gà sống cũng luôn tồn tại có nghĩa là bộ phận sinh dục nam, có coc- đây là cọc.
CHÔNG
Chông là cọc nhọn cũng chỉ bộ phận sinh dục nam:
. . . . . .
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu lỗ tội tiểu thỉ cắm chông.
Nam mô xứ Bắc xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
(ca dao).
Chông cùng vần với chống là que, nọc để đỡ vật gì, với trống là đực với chồng là người dân có chông, có chống là kẻ trống. Trong lúc đó bà xã biến âm với vỏ là cái bao, cái bọc, cái túi (xem Dịch Lý).
KE, QUE
Như đã nói trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ bộ phận sinh dục nữ và nam. Theo duy dương, ke biến âm với kẻ (kèo bé dại, thước kẻ), với que chỉ bộ phận sinh dục nam.
CẶC
Trung Nam gọi bộ phận sinh dục nam là cặc. Cặc là biến âm của cược, cọc như tiền đặt cọc là tiền đặt cược (Lê Ngọc Trụ, Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị). Từ cặc contact với các từ chỉ bộ phận sinh dục nam của Tây Ban Nha carajo, Latin bình dân caracium, Hy Lạp karas (pointed stake, cọc nhọn, REW. 1862) có car- là cặc; với Breton kalc’h, Cornish cal, Welsh col (sting, ngòi, nọc), Ái Nhĩ Lan colg (sword, gươm, kiếm, Pederson 1.105), giáo hội Slavic kocanu (c và u có dấu ă), Albanian kotsh (rod, stalk, que, roi, cọng cây, Berneker 536); Phạn ngữ kaprt(h)- (r có chấm ở bên dưới) (Walde -Phường. 1.348, 2.49). . .
BUỒI
Miền Bắc sử dụng từ buồi chỉ bộ phận sinh dục nam không sử dụng từ cặc. Buồi biến âm với bổ, búa (búa đó chính là búa có mỏ nhọn tức búa chim) cũng chính là vật nhọn. Buồi contact với Anh ngữ bur (mũi khoan), ebur (ngà voi quý hiếm), spur (mấu nhọn như cựa gà, mấu nhọn ở gót giày để thúc ngựa). Buồi biến âm thành “bòi »: trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ bòi: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Buồi thời buổi này cũng nói trại đi thành “bòi” như “Đứa nào cười tớ nó ăn bòi”. Buồi, bòi contact với Anh ngữ boy (con trai). Thằng “boy” có bòi, có buồi. Theo biến âm b=v, bòi = vòi, vọi. Khái Hưng trong truyện Trống Mái chứa một nhân vật rất nhiều người biết đến, một biểu tượng về tình dục (sex symbol) mang đầy hùng tính, nam tính mạnh mẽ tên là Vọi. Có lẽ Khái Hưng đã chọn tên này vì nó thân cận với Vòi, Bòi. Theo biến âm b=m, buồi = muồi, muỗi. Con muỗi là con mũi có vòi nhọn như kim nhọn hút máu; buồi = mùi. Trong mười hai con giáp Mùi là con dê là con thú có sừng biểu tượng cho dương, nam tương đồng với con hươu. Hán Việt dương là dê. Dương chứa một có nghĩa là đực. Đực biến âm với đục (chisel) là vật nhọn.
Nhìn tổng thể buồi là bổ, búa, vật nhọn contact với gốc cải tạo Ấn-Âu ngữ *pes-, *pesos- (Walde-Phường. 2.68, Ernout-M 7520. Anh ngữ penis có gốc pen- chứa một có nghĩa là cây bút, viết. Bút là bót, vót, viết là vót, vọt, que vót nhọn, nguyên thủy que vót nhọn sử dụng làm viết vạch lên đất nung, đá mềm. Pháp ngữ verge, Latin virga phát xuất từ gốc rod (roi), stalk (que, cọng cây) ta nhìn rõ gốc ver-, vir- contact với Việt ngữ vọt. Hòa Lan ngữ roed (penis) contact với Việt ngữ roi…
CHIM, CÒ, CU.
Bên dưới một góc cạnh, chim cò, cu có mỏ nhọn biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam. Theo biến âm ch= k như chặt = cắt, chim = kim (vật nhọn). Ta có từ ghép đồng nghĩa tương quan chim chóc. Chóc là chim. Tày-Thái ngữ chốc là chim. Với h câm chóc = cóc = cọc. Thailand ngữ nok là chim. Nok là nọc. Cò biến âm với cồ là đực. Đực biến âm với đục (chisel), vật nhọn. Đực là nọc như heo đực là heo nọc. Tục ngữ có câu:
Cơm no, cò đói.
Câu này cùng nghĩa với câu:
No cơm, ấm cật,
Rậm rật tối ngày.
Cu biến âm với cò, cồ. Chim cu biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam:
Mù u, ba lá mù u,
Vk chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
(ca dao).
Thiếu niên bé dại thường gọi bằng thằng cu. Như vậy chim, cò, cu có gốc từ vật nhọn, kim, nọc, cọc nên biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam.
Kết luận, qua các từ chỉ bộ phận nam nữ ta cảm thấy có các điểm quan trọng cầm lưu tâm như sau:
-Trong số những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, ghe, nốc, khe, kẽ v. v. từ lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc contact tới Nòng (ngược với Nọc), Khôn (ngược với Càn) sử dụng trong thiên hà quan, thiên hà giáo, thờ mặt trời, Dịch học. Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Từ lồn sử dụng đại trà phổ thông cả ba miền Bắc Trung Nam. Còn các từ khác gọi theo “vẻ bên ngoài” như ke, ghe, nốc v. v… ít đại trà phổ thông. Ghe, nốc sử dụng nhiều ở Trung Nam thôi.
-Trong toàn bộ tổng thể các từ chỉ bộ phận sinh dục nam như ke (que), buồi, cặc, chim cò đều phải sở hữu có nghĩa là vật nhọn, nọc, cọc. Miền Bắc sử dụng buồi trong những lúc Trung nam sử dụng cặc. Điểm đó một đợt nữa ngôn từ đã cho chúng ta thấy hai thế gới Bắc Nam mang Màu sắc Nam Bắc phân ranh (giới) rất có khả năng một trong những phần là vì hậu quả của thuở nào Nam Bắc phân tranh. Từ buồi của miền Bắc có gốc là bổ, búa. Từ bổ biến âm với bố (ngược với mẹ). Điểm đó ta cảm thấy thân cận với Hán ngữ phụ (bố) biến âm với phủ (rìu, búa). Bố có bổ, có buồi; phụ có phủ. Buồi của miền Bắc thân cận văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử China. Bố Việt và phụ China đều phải sở hữu búa cả. Trong lúc từ cặc của Trung Nam như đã nhìn thấy contact với Phạn ngữ kaprt(h)- (r có chấm ở bên dưới), bộ phận sinh dục nam (nên đừng quên trong Chàm ngữ, Mã Lai ngữ có không ít gốc Phạn) và thân cận với Mã Lai ngữ (bang Riau Johor) chok chỉ bộ phận sinh dục nam. Chok đây là cọc là cặc. Mã-Lai cận đại theo Hồi giáo vay mướn tiếng Ả Rập hak, zakar (cặc). Theo h = c (hủi = cùi) hak = cak, cặc và zakar có -kar là cặc. Từ cặc của Trung Nam thân cận với văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử Mã Lai Đa Hòn đảo.
-Về bộ phận sinh dục nam Bắc Trung Nam có hai từ riêng lẻ buồi và cặc, trong những lúc từ lồn thời buổi này đc dùng đại trà phổ thông khắp ba miền. Vấn đề đó đã cho chúng ta thấy mẹ VN đời đời như nhất, ảnh hưởng mẫu hệ vẫn còn đấy bảo trì bền vững và kiên cố trong thế gới VN; tầm quan trọng cô nàng trong thế gới VN vẫn không cân chỉnh, nói một cách khác vẫn đc bảo trì, tôn thờ dù ở xã hộ mẫu quyền hay phụ quyền dù ở bất kể một thể chế chính trị nào. . . Trong lúc nam phái đã chia rẽ, nhận biết Bắc Trung Nam và đi theo một số Khuynh hướng, thể chế văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử , chính trị khác biệt.
-Lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc contact tới Nòng. Mặt còn lại buồi và cặc tuy là hai từ khác biệt nhưng đều phải sở hữu nghĩa gốc là vật nhọn, nọc. Như vậy các từ chỉ bộ phận sinh dục nữ, nam đại trà phổ thông bây giờ đều mang nghĩa nòng nọc (âm khí và dương khí). Điểm đó đã cho chúng ta thấy Dịch lý giữ một tầm quan trọng cốt yếu trong tiếng Việt kể riêng và trong văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử Việt Tóm lại. Ta nhìn rõ bai vần âm nòng (O) và nọc (I) trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que có gốc từ bộ phận sinh dục nữ và nam.
Vấn đề đó phân tích và lý giải đã cho chúng ta thấy trông rất rõ ràng là kẻ cổ Việt thờ nõ nường. Khảo cổ học tìm cảm thấy các đôi tượng đá tạc bộ phận sinh dục nam nữ (nõ nường) ở Sông Mã, tượng bộ phận sinh dục nam ở Văn Điển, trên nắp thạp Đào Thịnh có các cặp nam nữ đang khiến tình… Nhiều Vị trí ở vùng đất tổ Việt như ở xã Khúc Lạc và Dị Hậu tỉnh Phú Thọ mới đây còn giữ tục thờ sinh thực khí. Thường niên hai xã vào đám ngày mồng 7 và 26 tháng giêng. Đồ lễ ngoài trầu cau rượu thịt còn sống sót 36 âm vật và dương vật (18 cặp) gọi bằng nõ nường, dân bản địa gọi bằng “nọ nường”. Làng Đông Kỵ, phủ Từ Sơn, tỉnh Tỉnh Bắc Ninh tổ chức triển khai hội xuân rước nõ nường vào trong ngày mồng 6 tháng giêng. Một bô lão dẫn đầu đám rước một tay cầm dương vật và một tay cầm âm vật được làm bằng gỗ vừa đi vừa hát:
Cái sự làm thế nào, cái sự làm vầy,
Cái sự thế này, cái sự làm thế nào.
Vừa hát cụ vừa múa điệu âm khí và dương khí mô tả theo động tác làm tình. Cụ lồng hai hai bộ phận nam nữ vào nhau v. v… Một số trong những xã ở Thành Phố Hải Dương cũng luôn tồn tại tục này. Khi đi rước thanh nam hát:
Cái nạo thế sừ, là cái sự ra sao?
Thanh nữ hát đáp lại:
Cái nạy thế sừ, là cái sự thế này. . .
(Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Sự thờ phượng nõ nường, thờ phượng dâm thần hay sinh thực khí của cổ Việt chưa hẳn là thứ “man di mọi rợi”, là thứ ‘dâm phong” “ngoài vòng lễ giáo” như người China gán cho tất cả những người cổ Việt. Đa số người Việt thời buổi này đã sai lầm không mong muốn nhận định rằng sự thờ phượng nõ nường là thô tục, là vấn đề đáng xấu hổ. Phải hiểu nõ nường là nọc nòng là nguồn cội, là sinh tạo, là tạo hóa ra đời thiên hà muôn chủng loài. Thờ nõ nường là đạo thờ nòi giống, là đạo bảo trì giống nòi, là đạo hiếu sinh, vĩnh cửu. Thờ nõ nường là đạo tối cổ của quả đât. Hình bóng thờ nõ nường để lại giữa những nền tiến bộ “văn minh hơn” có nghĩa là muộn hơn hẳn như thờ linga và yoni của Ấn Độ. Vào thời phụ quyền sự thờ phượng “nõ” ngự trị hơn hẳn như hình thạch bi obelisk của Ai Cập, Menhirs ở Anh và các trụ thạch ở nhiều địa điểm khác. . . với ý nghĩa sâu sắc đã xa rời “đạo gốc”, nõ nường âm khí và dương khí.
Một điểm rất lý thú là trong truyền thuyết thần thoại thiên hà tạo sinh của các người Hawaii có hai vị thần tổ sinh tạo nên trần gian (Earth và the things on the Earth) có tên là thần Ku và Lono (Martha Beckwith, Hawaiian Mythology, tr.32) tương xứng với Việt ngữ là thần Cu và thần Lồn. Vấn đề đó cũng dễ nắm bắt vì các tộc Mặt trời nước contact với cổ Việt hay phát xuất từ cổ Việt ở Đa Hòn đảo (Polynesia), Mã-Nam Dương đã sử dụng thuyền đi tìm kiếm đất mới tới tận các hòn đảo xa xôi, trong những số ấy có hòn đảo Hawaii.
Chim biểu của bang Hawaii là con ngỗng ne ne ruột thịt với con vịt trời le le (ne ne là âm cổ của le le ; ne biến âm với na, nã là nước và le biến âm với lã là nước ngọt, ngỗng ne ne và vịt trời le le đều là loài chim nước). Ngỗng ne ne của Hawaii ruột thịt với le le Vụ Tiên của VN. Con vịt trời le le Vụ Tiên bay tận đến Hawaii biến thành con ngỗng ne ne. Cho nên ngôn từ gần giống truyền thuyết thần thoại về thiên hà tạo sinh của các người Hawaii vẫn còn đấy còn sót lại các dấu tích của cổ Việt.
Người cổ Việt thờ nõ nường nên Việt Dịch nòng nọc là Dịch nguyên thủy. Trong lúc China có thuyết âm khí và dương khí nhưng không thờ nõ nường chứng minh Dịch China chưa hẳn là Dịch nguồn cội, là dòng Dịch đã hiện đại, đã muộn.
NHỮNG TỪ CHỈ LÀM TÌNH
Các từ đại trà phổ thông chỉ làm tình miền Bắc có các từ như địt, đéo, lẹo (con vật), phủ…, Trung Nam có từ đụ.
ĐỊT
Miền Bắc sử dụng từ địt chỉ làm tình, trong những lúc đó Trung Nam từ địt chỉ đánh hơi (Miền Bắc nói đánh hơi là đánh rắm). Trong trong những năm còn là một học sinh sinh viên y khoa tôi thường đc nghe kể lại mẩu truyện một vị gáo sư Y Khoa người miền Nam, sau khoản thời gian giải phẫu bụng cho 1 đàn bà người Bắc di cư, lúc đi thăm hậu giải phẫu, vị giáo sư này hỏi người bệnh “Chị đã địt chưa?”. Con bệnh đỏ mặt, xấu hổ . . . Cho tới lúc tôi viết các dòng này, không người nào hiểu tại sao. Xin giải toả khúc mắc này.
-Địt là làm tình.
Theo biến âm đ=d như đa = da (cây), ta có địt = dịt. Từ dịt chứa một có nghĩa là bám dính nhau, dán bám dính, buộc vào nhau như dịt thuốc vào vết thương. Theo d = r (dăng = răng), dịt = rịt, rít. Rít nghĩa là dính như rít rịt. Theo d = ch như giăng = chăng, dịt = chịt, chít. Chằng chịt là cột cứng bằng nhiều dây rợ qua lại tương đối nhiều lần. Chít khăn là cột, quấn khăn. Theo d = n như dăm = năm, ta có dịt = nịt. Nịt là dây, đai, thắt sườn lưng; nai nịt là cột người bằng thắt sườn lưng, bằng dây. Như vậy địt chỉ làm tình nghĩa là bám dính nhau, cột vào nhau. Ta cảm thấy trông rất rõ ràng miền Bắc có từ đi tơ chỉ con vật (thông thường là chó) giao hợp cùng với nhau. Tơ là sợi dây. Đi tơ là cột vào nhau như cột bằng sợi tơ, sợi dây. Địt contact với Phi Luật Tân Tagalog dikit, joined, Paiwan d’ekets (e ngược), lớn stick, gốc Uraustronesisch Dempwolff’s construction *deket (e ngược), lớn stick (Davidson). Rõ đặc biệt là địt và Tagalog dik-, joined nghĩa là nối cùng với nhau, cắt chéo cùng nghĩa với giao hợp. Địt contact với Phạn ngữ snit, lớn love, yêu, có -nit là địt (n=đ như này = đây). Phạn ngữ snit biến âm với Phạn ngữ snih, attached, đính vào, cột vào. Rõ như ban ngày địt biến âm với dịt contact ruột thịt với Phạn ngữ snit, snih. Không những thế địt cũng contact với Phạn ngữ nidhuvana, sexual intercourse, làm tình. Rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt cụ thể con cua” là địt contact với phần đầu nid- của Phạn ngữ nidhuvana. Nid- = nịt = địt.
-Địt là đánh hơi
Theo biến âm đ = r như đôm đốp = rôm rốp (tiếng kêu), ta có địt = rít. Từ rít chứa một có nghĩa là tiếng kêu do hơi thoát sang một ống hay là 1 lỗ bé dại như ấm nước sôi rít lên, còi tầu hỏa hay tầu thủy (chạy bằng hơi nước) rít lên từng hồi. Rít contact với Phạn ngữ ri là rít, là rú lên. Ta có từ ghép rên rỉ với từ rỉ đây là Phạn Ngữ ri (các nhà ngữ học bây giờ nhận định rằng rên rỉ là tiếng láy với thành tố láy rỉ không có ý nghĩa là sai). Như vậy đánh địt, đánh hơi là đánh rít. Chính vì như vậy mà người Bắc nói đánh hơi là đánh rắm, đánh rít là rắm rít. Rắm rít là đánh hơi. Ta cảm thấy người Bắc nói rắm còn Trung Nam biến rít thành địt. Từ rắm rít là 1 từ ghép điệp nghĩa, rít nghĩa là tiếng kêu thì rắm cũng cần phải nghĩa là tiếng kêu. Thật vậy, rắm biến âm với rầm chỉ tiếng kêu như rầm rầm. Hiển nhiên đánh hơi cũng kêu thành tiếng. Trong 1 truyện tiếu lâm ví tiếng đánh hơi như tiếng sấm rầm rầm hay sấm gầm. Theo r = g như rợn = gợn (sóng) ta có rầm = gầm. Trong một trong những buổi ngự triều, một vị vua đang ngủ gà ngủ gật, một ông quan lỡ đánh “bụp” rầm một tiếng làm vua bất ngờ thức dậy, hốt hoảng, vua hỏi “Cái gì kêu vậy?” Vị quan lanh miệng đáp: “Bẩm Thượng Hoàng, sấm kêu!”. Vua vặn lại “Sấm kêu sao lại thối?”. Vị quan chữa lại “Dạ có con cóc chết!”. Vua thắt bận bịu: “Cóc chết sao lại kêu?”. Vị quan phân tích và lý giải: “Sấm kêu làm cóc chết!”. Vua giận “Cóc kêu gọi sấm thì làm thế nào sấm làm cóc chết đc”. Rồi ra lệnh lôi vị quan ra chém đầu, nghi vị quan này muốn ám sát mình.
Rõ đặc biệt là rít, địt contact ruột thịt với Phạn ngữ dhish, lớn emit sound (phát ra tiếng kêu). Cũng rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt cụ thể con cua” là địt ruột thịt Phạn ngữ dhish, phát ra tiếng kêu. Anh ngữ đánh hơi gọi bằng lớn fart contact với Phạn ngữ pard (lớn fart), Hy Lạp ngữ là perdo, Old High German là ferzan. Các từ này còn có gốc fa-, pa-“ contact với Việt ngữ phà là xì ra hơi, nhả ra hơi như phà ra hơi, phà khói, phì phà điếu thuốc và gốc pe-, fe- contact với Việt ngữ phèo như cảm thấy qua từ ghép phì phèo, với Hán Việt phế là phổi (phổi là cơ quan hô hấp phì, phà ra hơi…). Việt ngữ có từ phá thối nếu hiểu theo nghĩa thô tục thì thân cận với từ phà thối. Tại đây ta rất có khả năng sử dụng Việt ngữ phà ra hơi, đánh hơi để hiểu ngọn ngành Anh ngữ lớn fart là phà ra hơi.
Như vậy ta cảm thấy trông rất rõ ràng hai từ địt của miền Bắc và Trung Nam là hai từ đồng âm dị nghĩa. Đúng ra Trung Nam phải nói đánh dít hay rít cho đồng bộ với từ rắm của miền Bắc theo như đúng như từ đôi rắm rít thay thế vì địt mới không gây nên hiểu lầm.
ĐÉO, LẸO.
Miền Bắc cũng thường được sử dụng từ đéo chỉ làm tình như giai thoại “đá bèo” (nói lái lại là ‘đéo bà”) của Trạng Quỳnh và thơ Cao Bá Quát có câu:
Hai hồi trống giục, đù cha kiếp,
Một lưỡi gươm đưa, đéo mẹ đời.
Đéo biến âm với đeo, nghĩa là bám cứng vào nhau, bám lâu vào nhau như “đeo như đỉa đói”. Đéo biến âm với “đèo” là chở nhau, ôm nhau, cõng nhau như đèo bòng tức đèo bồng (bồng là bế, bồng bế”). Đéo cũng biến âm với néo, hai khúc cây nối bằng một khúc dây sử dụng “neo” bó lúa để đập lúa. Néo hàm nghĩa cột cứng vào nhau (cùng nghĩa với nai, nịt, địt). Néo contact với Anh ngữ nail, vật nhọn sử dụng đóng chặt hai vật vào nhau. Nguyên thủy neo, nail là nêu, cọc nhọn. Như vậy từ đéo cũng luôn tồn tại nghĩa hệt như từ địt làm tình là bám dính nhau, cột vào nhau. Từ đéo biến âm với đeo, đèo, néo nghiêng nhiều về hình ảnh bám dính chắc vào nhau, ôm nhau, cõng nhau thường nhìn thấy nhiều ở con vật khi giao cấu cùng với nhau như hai con sam khi giao hợp ôm cứng nhau nên tục ngữ có câu “đeo như sam”, cóc ếch khi giao cấu ôm nhau, cõng nhau, đèo nhau… Theo biến âm đ = l như đãng tai = lãng tai, ta có đéo = lẹo. Lẹo cũng luôn tồn tại có nghĩa là làm tình như con đó với thằng đó lẹo tẹo cùng với nhau. Hai con chó giao cấu cùng với nhau thường nói là “bận bịu lẹo”.
ĐỤ
Trung Nam nói làm tình là đụ. Ta cảm thấy rất có khả năng:
-Đụ là biến âm với đu chứa một có nghĩa là bám cứng như đeo, với đâu (nối lại như đâu lại cùng với nhau) cũng hàm nghĩa như từ địt của miền Bắc. Theo t = n như túm = núm (nắm, bắt) ta có địt = địn. Địn là từ nói trại đi của địt. Ta có từ đụn địn là từ nói trại đi của hai từ đụ địt. Địa khai ngôn từ đụn địn là đụ địt còn đào tìm cảm thấy qua bài đồng dao sau này:
Mười rằm trăng náu,
Mười sáu trăng treo,
Mười bẩy sẩy chiếu,
Mười tám rám trấu,
Mười chín đụn địn,
Hai mươi giấc tốt nhất
. . . . . .
“Mười bẩy sẩy chiếu” là đêm mười bẩy sải chiếu, trải chiếu.“Mười tám rám trấu” là đêm mười tám đốt trấu làm lò sưởi đã cháy rám, đã cháy nám, đã bén cháy. Tổng thể toàn bộ đã sửa soạn sẵn sàng chuẩn bị xong, “Mười chín đụn địn” là đêm mười chín đụn địn, có nghĩa là làm tình đụ-địt. Các người sáng tác bây giờ thường phân tích và lý giải “né né” cho khỏi thô tục cho đụn địn nghĩa là “đi ngủ”. Từ ngủ cũng luôn tồn tại có nghĩa là làm tình như “con đó ngủ với khá nhiều thằng”. “Hai mươi giấc tốt nhất” là đêm hai mươi ngủ ngon. Rõ nét đêm mười chín đâu có ngủ, suốt đêm thức lục đục lo “đụn địn” nên đêm tối sau mới lăn ra ngủ, mới có “giấc tốt nhất”. Làm tình là liều thuốc ngủ vạn vật thiên nhiên rất tốt.
-Đụ là dạng giảm thiểu của đục. Từ đục bị đục bỏ chữ “c” cuối còn sót lại “đụ”. Đục chỉ động tác làm tình. Theo biến âm đ = th (lừ đừ = thủng thỉnh), ta có đục = thục, thúc, thọc, thụt, thọt contact với Anh ngữ thrust, chỉ động tác làm tình.
-Đụ là biến âm với tụ, tủ (theo đ = t). Tụ nghĩa là qui vào nhau như tụ tập, tụ họp. Đụ, tụ là kết vào nhau, bám dính nhau, đến cùng với nhau. Các nghĩa đó đều hàm ý làm tình cảm thấy trông rất rõ ràng qua từ Latin coitus, coire, Pháp ngữ coit có nghĩa đen là come together (có gốc “co-“, cùng, chung). Coitus, coit gần âm với Việt ngữ chơi (chơi là đến cùng với nhau, cùng vui cùng với nhau), chọi…
Còn tủ là phủ là che đậy. Phủ cũng chỉ nghĩa giao cấu, giao hợp như trong truyền thuyết thần thoại có chuyện thuồng luồng “phủ” người. Làng Ngãi ở Bắc Việt có tục thờ bà Phạm Ngọc Dong. Bà đã đc thuồng luồng phủ và ra đời một bọc trứng nở ra Đại Hải Long Vương. Ông này sau làm tướng cứu vua Hùng đánh thắng quân Thục bằng các quân lính tuyệt đối là loài thủy tộc. Thường niên vào trong ngày mồng 3 tháng giêng, dân làng mở hội, cúng tế, bao giờ cũng luôn tồn tại món gỏi cá để cúng ông thần sông Hà Bá và bà Chúa Đầm; cúng ở đình và ở các bến nước bằng gỏi cá. Chính vì như vậy tại vùng này còn có câu ca dao “Trống Mơ, cờ Sỏi, gỏi Nghìa” để mệnh danh món gỏi cá nhiều người biết đến của làng Nghìa, làng Nghĩa tức làng Ngãi (Lê Thị Nhâm Tuyết). Phẫu thuật ta cảm thấy quân Thục thuộc sắc dân Tầy-Thái thuộc họ ngoại Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương dòng Nước, âm, họ ngoại Âu Cơ (An Dương Vương dựng nước Âu Lạc tích hợp giữa Âu Việt của Âu Cơ và Lạc Việt của Lạc Long Quân). Chính vì như vậy phải chứa một vị tướng con của Thuồng Luồng có cốt cá sấu (cá sấu mới đẻ ra trứng) là dòng nước là Đại Hải Long Vương (cụ thể rồng Long có cốt cá sấu thuồng luồng) và phải sử dụng quân là các loài thủy tộc mới đánh thắng đc quân Thục là dòng nước. Ta cũng cảm thấy tên Dong nghĩa là bảo phủ như cảm thấy qua từ ghép đồng nghĩa tương quan bao dong. Lá dong là thứ lá sử dụng để bao, để bọc, để gói như bánh chưng. Dong là bảo phủ là Nong là Nòng. Tên bà là Bao, Bọc nên bà đẻ ra một bọc trứng và bà là di duệ của Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra trăm Lang Hùng). Bà Phạm Ngọc Dong là dòng nòng, làn nước nên đc thuồng luồng phủ là vậy. Ta cũng cảm thấy công chúa Ngọc Dung (Dung biến âm của Dong như bao dung = bao dong) con vua Hùng vương có dòng máu “mẹ”, nước nên lấy một gã thuyền chài tên là Chử Đồng Tử (Cậu Con Trai sống bên Bến Sông) ở làng Chử Xá (Làng Ven sông). Ở đầu cuối tại sao chọn ngày 3 tháng giêng làm ngày hội? Xin thưa số 3 là số Đoài tức ao đầm và số 1 là số Chấn (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002) tức nước dương chứa một gương mặt là biển (Vua Mặt Trời Nước Lạc Long Quân có mạng Chấn nên chứa một gương mặt là Long Vương Thần biển hóa thành con Rùa Vàng Kim Qui cứu An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây thành xong con Rùa Vàng quay lại Biển. An Dương Vương là dòng nước Âu-Lạc, cuối đời cầm sừng tê giác bẩy khấc rẽ nước đi xuống biển là vậy). Ngày 3 tháng giêng đều là ngày của làn nước, ao hồ sông biển.
Tại đây ta rất có khả năng sử dụng tiếng Việt tìm nguyên ngữ của Anh ngữ fuck. Từ “fuck” có gốc fu- ruột thịt với Việt ngữ phủ và fu(ck) = phủ = tủ = đụ.
Ở đầu cuối, như đã nhắc đến ở trên, là từ địt của miền Bắc contact với phần đầu nid- của Phạn ngữ nidhuvana (sexual intercourse). Nid- = nịt = địt. Ta cũng cảm thấy từ đụ của Trung Nam cùng âm -dhu- phần thứ 2 của Phạn ngữ nidhuvana. Hợp lí miền Trung Nam lấy phần âm giữa còn miền Bắc lấy phần âm đầu? Cả 2 cùng một gốc Phạn?
Các từ làm tình của Việt cũng mang ý nghĩa sâu sắc tích hợp, giao hòa, giao hợp có nghĩa là mang ý nghĩa sâu sắc của Dịch lý. Qua hai từ địt của miền Bắc và đụ của miền Nam ta cũng cảm thấy có sự nhận biết, chia rẽ như hai từ buồi và cặc.
Xem Ngay:
Cước Chú
(1). Tôi gọi clitoris là hạt tình vì clitoris về khung hình học tương đồng với glans (qui đầu) của dương vật. Tiếng đại trà phổ thông glans chỉ một thứ hạt dẻ rừng, vì khung hình học tương đồng cùng với nhau nên đã gọi glans là hạt thì clitoris cũng cần phải sử dụng từ hạt cho tương xứng.
Thể Loại: Giải bày Kiến Thức Cộng Đồng