Về bố cục:
* Với những bài thơ “Thất ngôn bát cú Đường luật” có cấu trúc rất chặt chẽ, và có những nét riêng.
– Nếu tìm hiểu thao chiều dọc thì có bố cục, niêm, đối vần.
– Nếu tìm hiểu theo chiều ngang thì có luật (bằng, trắc).
– Bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú có bốn phần: đề, thực, luận, kết. (mỗi phần có hai câu)
+ Phần đề: Phải làm cho người đọc thấy được “cái thần” của bài thơ và từ trong đề đã hàm ý các phần tiếp sau.
+ Ví dụ: Phần đề trong bài “Qua đèo ngang” đã giới thiệu phần nào khung cảnh đèo Ngang buổi xế tà (đã chuẩn bị cho toàn bài)
+ Phần thực gồm câu 3, 4 đối nhau có nhiệm vụ triển khai ý tứ của đề như tả cảnh, tả việc hoặc cách nghĩa sự việc cho phần tiếp theo.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
(Hai câu tả cảnh đã ngầm ý luận)
+ Phần luận: Gồm câu 5, 6 cũng đối nhau có nhiệm vụ bình luận, nhận định.
– Thông thường triển khai tứ, ý ở hai câu thực và có khi lộn với hai câu luận, nếu hai câu thực đã ngầm ý luận.
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da.”
– Ở đây tác giả vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng ngụ tình theo nghệ thuật thừa ý, chuyển ý.
– Phần kết: Gồm câu 7, 8 với chức năng khép bài nhưng thường không khép kín mà gợi ý có khi gợi ra một ý mới.
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
+ Qua các phần đề, thực, luận kết cấu tứ của bài thơ ngày càng rõ dần theo một trình tự lô gíc, cảm xúc của tác giả cũng dần được bộc lộ qua kết cấu.
– Giữa thực và luận nhiều khi ranh giới cũng không rõ ràng tách bạch. Bởi thế khi phân tích cũng không tách ra một cách máy móc.
– Còn giữa đề và kết lại có quan hệ mật thiết từ hình thức đến nội dung: Về hình thức thì hai câu đề và câu kết cũng có hệ thống thanh bằng, thanh trắc trùng nhau.
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
………………………..
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Về nội dung thì câu đề giới thiệu ý của bài, câu kết vừa khái quát được ý vừa gây được âm vang và liên tưởng cho người đọc. Câu kết thường bộc lộ chủ đề của bài.
” Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
* Với những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Đây là thể thơ mỗi bài chỉ có bốn câu (tứ tuyệt), mỗi câu thơ chỉ có bẩy chữ (thất ngôn)
– Đối: Phần lớn những bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật có luật đối như sau :
+ Có thể câu 1 và câu 2 đối nhau.
+ Có thể câu 3 và câu 4 đối nhau.
+ Có thể câu 2 câu 3 đối nhau.
– Bố cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật hoàn toàn khác so với những bài thơ làm theo thể Thất ngôn bát cú.
– Bố cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt được khai thác theo cấu trúc: Khai, thừa, chuyển, hợp.
+ Câu 1 gọi là câu khai.
+ Câu 2 gọi là câu thừa.
+ Câu 3 gọi là câu chuyển.
+ Câu 4 được gọi là câu hợp (khép lại.)
Tóm lại kết cấu bài thơ Đường rất chặt chẽ từ đề, thực, luận, kết… đều nằm trong hệ thống chặt chẽ khi phân tích thơ Đường cho nên khi khai thác, phân tích văn bản tôi thường cắt ngang phân tích từng phần rồi cuối cùng tổng hợp lại.
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Qua đèo Ngang’’ của Bà Huyện Thanh Quan tôi phân tích theo kết cấu đề, thực luận kết rồi sau đó tổng hợp chốt lại kiến thức cơ bản vì trong suốt bài thơ tình lồng trong cảnh, cảnh có trong tình ‘‘ngụ cảnh tả tình’’ để khi phân tích học sinh không bị trùng lặp kiến thức.
c.2. Về Niêm luật.
Khi dạy thơ Đường tôi luôn chú ý cho học sinh hiểu rõ Niêm luật trong thể thơ Đường luật. Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc khai thác cái hay, đúng, cái đẹp của tác phẩm.
– Luật bằng trắc.
– Các chữ không dấu và chỉ có dấu huyền: thuộc thanh bằng.
– Các chữ có dấu sắc, nặng, hỏi, ngã: thuộc thanh trắc.
– Các chữ thứ nhất, ba, năm là bằng hay trắc đều được, nhưng các chữ thứ hai, tư, sáu phải theo đúng luật bằng trắc.
– Trong các câu thơ các chữ thứ 2,4, 6 phải đối thanh.
Nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ thứ 4 là trắc ® chữ thứ 6 là bằng. Nếu chữ thứ 2 là trắc ® chữ thứ 4 là bằng ® chữ thứ 6 là trắc.
– Nói cách khác trong mỗi câu thơ chữ thứ hai và chữ thứ 6 phải đồng thanh, chữ thứ 4 phải đối thanh với chữ thứ 2 và chữ thứ 6.
– Cặp câu 1 và 4, cặp câu 2 và 3 thì các chữ thứ 2,4, 6 phải đồng thanh (cùng trắc hoặc cùng bằng)
– Chữ thứ 2 câu 1 là bằng.
– Ví dụ : “Thân em vừa trắng lại vừa tròn.
B T B
Bảy nổi ba chìm với nước non.
T B T
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
T B T
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
B T B
– Chữ thứ 2 câu 1 là trắc.
Ví dụ: Bài thơ “Thiên trường vãn vọng” của Trần Nhân Tông.
“Thôn hậu thôn tiền đạm tử yên
T B T
Bán vô bán hữu tịch dương biên
B T B
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
B T B
Bạch lộ song song phi hạ điền.”
T B T
Như vậy vấn đề Niêm luật đòi hỏi học sinh phải chú ý trong quá trình phân tích bởi thông qua đó tác giả nêu lên tâm sự thầm kín của mình và học sinh thấy được tài năng đặc biệt của từng nhà thơ, từ đó phát huy được khả năng văn chương của chính mình.
c.3. Ngôn ngữ trong thơ Đường luật.
Ngôn ngữ trong thơ Đường luật có tính hàm súc. Đặc biệt là những bài thơ của tác giả Trung Quốc, khiến học sinh gặp không ít khó khăn trong quá trình hiểu văn bản. Nếu chương trình sách giáo khoa cũ các em được học tiết “Mở rộng vốn từ” thì một số từ ngữ Hán việt các em còn hiểu chút ít, nhưng hiện nay phần này không được đưa vào chương trình sách giáo khoa. Vì thế các em hiểu rõ những từ ngữ trong bài thơ rất lơ mơ, do đó các em rất khó cảm nhận hết được tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm vào bài viết. Chính vì vậy trước khi tìm hiểu một bài thơ Đường luật tôi thường yêu cầu học sinh tự tra những từ ngữ đó trong phần cuối sách trước ở nhà, để khi đến lớp các em dễ dàng tiếp nhận tác phẩm hơn.
Một trong những đặc điểm của thơ Đường luật là tính hàm súc (ý tại ngôn ngoại). Đây chính là đặc điểm của một bài thơ có giá trị. Với 56 tiếng của của bài Thất ngôn bát cú và 28 câu của bài tứ tuyệt, bài thơ phải diễn đạt được tối đa ý đồ thầm kín của tác giả.
Ngoài ra một yếu tố nữa trong ngôn ngữ được những nhà thơ xưa coi trọng, đó là yếu tố hoạ, nhạc “Thi trung hữu hoạ” hoặc “Thi trung hữu nhạc”. Để làm nổi bật được “bức tranh” trong bài thơ người ta sử dụng lối văn hình ảnh, dùng từ ngữ gợi tả hình tượng màu sắc, đường nét cho nổi hình trước mắt người xem.
Trong thơ Đường, đặc biệt là thơ Đường luật thường không có hư từ mà chỉ có những thực từ gắn kết với nhau theo cấu trúc nội tại vì thế khi phân tích tôi coi trọng việc khai thác từng tiếng, từng từ, từng hình ảnh kết hợp việc phân tích, giảng thuật và kênh hình để từ đó học sinh cảm nhận được những tấc lòng của thi nhân, những nỗi niềm tâm sự thầm kín.
Đây là một trong những đặc sắc của thơ Đường luật. Đó chính là sự cô đúc, súc tích được sản sinh từ một kiểu tư duy nghệ thuật, một thi pháp độc đáo của các nhà thơ xưa.
Tóm lại xác định được các yếu tố thi pháp là một việc, nhưng cái quan trọng ở đây là cách vận dụng sát hợp với đối tượng học sinh lớp 7 với những khái niệm còn xa lạ của thi pháp thơ Đường trong từng bài cụ thể. Để có thể đưa những vấn đề cao xa, trừu tượng của thi pháp thơ đường vào đầu óc non trẻ, cảm tính của các em nhỏ, có thể đưa bằng nhiều cách như: cụ thể hoá, cảm tính hoá, thậm chí trực quan hoá các khái niệm thi pháp thơ Đường trong quá trình dẫn dắt và tiến hành dạy các bài thơ.
Khi vận dụng các yếu tố thi pháp phải linh hoạt, phù hợp với từng bài thơ. Không cứng nhắc, áp đặt. Làm thế nào để học sinh nắm bắt được nội dung cũng như giá trị nghệ thuât của bài thơ. Gây được sự hứng thú khi học thơ Đường, biến cái khó thành cái bình thường, từ chỗ chán nãn đến chỗ ham thích, say mê nghiên cứu thơ Đường.