Các chất hữu cơ trong đất có quá trình đổi khác phức tạp với việc nhập cuộc trực tiếp của các sinh vật đất and lệ thuộc của các tác nhân môi trường tự nhiên bao quanh đất. 1 lớp bên trong chúng bị khoáng hoá tuyệt vời nhất chia thành các chất khoáng đơn giản, một trong những phần được các sinh vật đất cần sử dụng để tổ hợp protein, lipit, đường and các hợp chất khác ra đời khung người chúng, một trong những phần sẽ trải qua quá trình đổi khác phức tạp and tái tổ hợp thành các hợp chất cao phân tử được gọi bằng chất mùn.
Bài Viết: Khoáng hóa là gì
Nói một cách thức thức khác, các chất hữu cơ khi bước vào đất sẽ chịu tác động ảnh hưởng của 2 quá trình xẩy ra cùng theo đó là quá trình khoáng hoá and quá trình mùn hoá. Tuỳ theo tình huống đất đai and vận động của sinh vật đất mà 1 trong những hai quá trình trên rất có khả năng chiếm điểm vượt trội nằm phí trong đất.
Các hợp chất mùn sau thời điểm được dựng nên cũng chịu tác động ảnh hưởng phân giải chậm để khởi tạo thành các chất khoáng (Hình).
Quá trình khoáng hoá and tổ hợp chất mùn đất
Quá trình khoáng hoá chất hữu cơ trong đất(vô cơ hoá)
Khoáng hoá là quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ thành các chất khoáng đơn giản như CO2, H2O, NO3-, NH4+, Ca2+, Mg2+, K+…
Này là quá trình đổi khác phức tạp and thông trải qua nhiều quy trình tiến độ khác biệt. Trước hết các chất hữu cơ phức tạp bị phân giải thành các chất hữu cơ đơn giản hơn gọi bằng các sản phẩm trung gian. Chẳng hạn như từ các phân tử protein bị phân huỷ chia thành các mạch peptit, sau này là các axit amin; các hyđratcacbon bị phân huỷ chia thành các hợp chất đường, tiếp đến các hợp chất trung gian này liên tục bị phân huỷ chia thành các sản phẩm ở đầu cuối là các chất khoáng.
Tuỳ thuộc vào tình huống môi trường tự nhiên bao quanh and vận động của các vi sinh vật đất mà quá trình khoáng hoá chất hữu cơ rất có khả năng trình làng theo hai con phố khác biệt là thối mục and thối rữa.
– Thối mục là quá trình hiếu khí trình làng trong tình huống có không thiếu oxy. Thành phầm ở đầu cuối của những đoạn này đa số là các chất ở dạng oxy hoá như CO2, H2O, NO3-, PO43-, SO42-. Này là quá trình toả nhiệt and hiệu quả làm tăng độ ẩm của đất.
– Thối rữa là quá trình kỵ khí trình làng trong tình huống thiếu oxy do ngập nước hoặc do các vi sinh vật hiếu khí cải cách và phát triển nhanh đã cần sử dụng hết oxy trong đất. Thành phầm ở đầu cuối của những bước thối rữa ở kề bên các chất ở dạng oxy hoá như CO2, H2O còn sống sót một lạng lớn các chất ở dạng khử như CH4, H2S, PH3, NH3…
Tốc độ khoáng hoá các chất hữu cơ trong đất chịu ràng buộc vào thực ra chất hữu cơ, tình huống môi trường tự nhiên bao quanh and vận động của sinh vật đất. Nhìn tổng thể các hợp chất đường and tinh bột dễ bị khoáng hoá nhất; tiếp này là các chât protein, hemixenlulô, xenlulô; các hợp chất linhin, nhựa sáp khó bị phân huỷ hơn.
Các tình huống môi trường tự nhiên bao quanh như nhiệt độ, độ ẩm, cơ chế không gian, phần tử and nổi trội dung dịch đất cũng sẽ có ảnh hưởng mạnh đến tốc độ của những bước khoáng hoá. Đôi khi ở nhiệt độ đất 70%, pH 6,5 – 7,5, độ ẩm 25 – 30oC and có đủ không gian là tương thích cho vận động của vi sinh vật đất and vì thế quá trình khoáng hoá cũng xẩy ra mạnh. Trong tình huống như vậy chất hữu cơ bị phân giải nhanh chóng lẹ and mùn ít được tích luỹ. Chính do đó mà quá trình phân huỷ chất hữu cơ ở các đất có thầnh phần cơ giới nhẹ (như đất cát) cũng trình làng nhanh hơn ở các đất có phần tử cơ giới nặng (đất thịt nặng and đất sét nung).
Quá trình mùn hoá
Tuyến đường tích luỹ chất hữu cơ sau một năm bón vào đất (theo Brady 1990)
Mùn hoá là quá trình phân giải tái tổ hợp các chất hữu cơ chia thành chất mùn với việc nhập cuộc lành mạnh và tích cực của các sinh vật đất.
Mùn là hợp chất hữu cơ cao phân tử phức tạp, chúng là sản phẩm của những bước mùn hoá các chất hữu cơ thỉnh thoảng. Người ta nhận định rằng, mọi phần tử hữu cơ trong đất (protein, linhin, lipit, axít amin, hydratcacbon….) đều sở hữu thể là vật chất nhập cuộc dựng nên chất mùn đất. Mặc dù thế về thực ra của những bước dựng nên chất mùn vẫn tồn tại sống sót cách nhìn khác biệt.
Những người theo cách nhìn hoá học nhận định rằng quá trình dựng nên chất mùn chỉ đơn giản là các phản ứng hoá học. Đại diện thay mặt cho quan đặc điểm này như Vacsman, Scheffer. Theo Vacsman (1936) thì hạt nhân của chất mùn được dựng nên do linhin phối hợp với các chất khoáng kiềm trong đất, tiếp đến các phản ứng oxy hoá sẽ kết nối thêm các axít hữu cơ khác để dựng nên chất mùn. Không chỉ có vậy trong quá trình phân giải các xác hữu cơ, một loại sản phẩm black color vô đánh giá, có phần tử phức tạp được dựng nên gọi bằng chất mùn.
Schefer nhận định rằng sự dựng nên axít humic rất có khả năng bằng con phố sinh hoá and cũng sẽ có thể bằng con phố hoá học đơn giản. Bằng con phố hoá học, các axít humic được chia thành từ các phenol, quinol and các aminoaxit thông qua các phản ứng oxy hoá and trùng hợp.
Xem Ngay: Adj Là Gì – Vị Trí Của Tính Từ Trong Câu Adjectives
Ngày này, nhiều vật chứng cho cảm nhận thấy sự dựng nên chất mùn có sự nhập cuộc lành mạnh và tích cực của các quá trình sinh hoá, nổi trội là các vi sinh vật đất. Sự dựng nên chất mùn bằng con phố hoá học đơn giản là rất tinh giảm, nó chỉ rất có khả năng gặp ở những Chỗ đứng có tình huống vô ích cho các quá trình sinh học như đất quá chua hoặc rất nhiều độc tố. Chúng ức chế các quá trình sinh học xẩy ra.
Ý kiến sinh hoá về việc dựng nên chất mùn nhận định rằng chất mùn được dựng nên từ sản phẩm phân giải and tái tổ hợp các chất hữu cơ thỉnh thoảng với việc nhập cuộc lành mạnh và tích cực của các phản ứng sinh hoá, nổi trội là các men do các vi sinh vật tiết ra.
Quá trình dựng nên mùn theo quanđiểm hiệnđại
Chiurin là kẻ có rất nhiều góp phần trong những công việc nghiên cứu về mùn đất. Ông nhận định rằng tính chất cơ bản của việc mùn hoá là những phản ứng sinh hoá oxy hoá dần dần những hợp chất cao phân tử có mạch vòng khác biệt, trong số ấy protein, linhin đóng tầm quan trọng quan trọng. Những phản ứng oxy này xẩy ra khi phân giải các tàn tích thực vật phía bên dưới ảnh hưởng của oxy không gian, men oxydaza and các chất xúc tác vô cơ khác.
Những hợp chất cao phân tử trên liên kết lại cùng với nhau rồi trùng hợp thành các chất mùn. Trong quá trình sống của tôi, vi sinh vật đất cần sử dụng các sản phẩm phân giải hữu cơ, những sản phẩm bàn thảo chất and tổ hợp các hợp chất amin, hợp chất thơm cũng nhập cuộc cấu tạo nên chất mùn.
Mô tả các con phố dựng nên chất mùn từ các xác hữu cơ thỉnh thoảng nằm phí trong đất (Theo Stevenson, 1982).
Các con phố dựng nên chất mùn
Từ sơ đồ trên cho cảm nhận thấy nền tảng gốc rễ các chất nhập cuộc cấu tạo nên chất mùn rất có khả năng bao gồm toàn bộ các chất hữu cơ là sản phẩm phân giải trung gian, sản phẩm tái tổ hợp của các khung người sinh vật. Chúng rất có khả năng là các chất đường, polyphenol, quinol, các chất amin, các hợp chất linhin,… Trong đó các hợp chất chứa vòng thơm như phenol, polyphenol, quinol, polyquinol, các chất linhin có tầm quan trọng quan trọng.
Xét một cách thức thức tổng quát, quá trình dựng nên chất mùn rất có khả năng phân tạo thành 3 bước cơ bản như sau:
– Từ các xác hữu cơ mà đa số là xác thực vật bị phân huỷ với việc nhập cuộc lành mạnh và tích cực của vi sinh vật đất để dựng nên các hợp chất hữu cơ là các sản phẩm trung gian như đường, polyphenol, quinol, các chất amin,…
– Ảnh hưởng tác động của các hợp chất trung gian, hoặc bị phân huỷ liên tục hoặc liên kết cùng với nhau để dựng nên các chất phức tạp hơn.
– Trùng hợp and liên kết các hợp chất trung gian trên chia thành các chất mùn.
Theo Stevenson thì có 4 con phố dựng nên chất mùn khác biệt: Sự liên kết trùng ngưng Một trong những hợp chất đường với các chất amin (con phố 1); Một trong những polyphenol là sản phẩm phân huỷ các xác hữu cơ với các chất amin (con phố 2); Một trong những chất là sản phẩm phân huỷ linhin với các hợp chất amin (con phố 3); and các chất linhin đổi khác với các chất amin (con phố 4). Các con phố này đều sở hữu sự nhập cuộc của các quá trình sinh học.
Theo Selman Waksman, chất mùn được dựng nên đa số từ các hợp chất linhin (con phố 4) nên còn được gọi bằng định hướng linhin dựng nên chất mùn. Theo thuyết này, trước hết các hợp chất linhin bị đổi khác mất dần các nhóm metoxyl (OCH3). Với việc mở ra của các orthohydroxylphenol and sự oxy hoá các hợp chất béo để dựng nên các nhóm cacboxyl (COOH). Các hợp chất linhin này bị đổi khác dần để dựng nên các axit mùn. Sự dựng nên chất mùn theo con phố 1 là không đáng chú ý.
Một số trong những người sáng tác kì cục nhận định rằng chất mùn đất được dựng nên theo con phố 2 and 3 là chính and gọi bằng học thuyết polyphenol dựng nên chất mùn. Theo thuyết này, linhin rất được nhìn nhận như nền tảng gốc rễ quan trọng thứ nhất để dựng nên chất mùn. Phía dưới tác động ảnh hưởng của các enzym sinh học, linhin bị phân huỷ thành các aldehyt phenol and các axít hữu cơ. Kế tiếp chúng chuyển thành các hợp chất quinol rồi trùng hợp lại để dựng nên chất mùn.
Xem Ngay: Compromise Là Gì – Compromise Trong Tiếng Tiếng Việt
Ngày này người ta thừa nhận cả 4 con phố dựng nên chất mùn đều trình làng cùng theo đó. Mặc dù thế tuỳ theo tình huống and nổi trội chi tiết cụ thể của từng loại đất mà một con phố gì đó rất có khả năng chiếm điểm vượt trội hơn. Đôi khi chất mùn dựng nên từ các chất linhin đổi khác (con phố 4) chiếm điểm vượt trội ở các đất thoát nước kém; trong những khi dựng nên từ polyphenol (con phố 2 và3) lại có điểm vượt trội ở các đất rừng.
Thể Loại: San sẻ Kiến Thức Cộng Đồng