3.2. Phong cách thơ Chế Lan Viên Tài năng thơ Chế Lan Viên bộc lộ khá sớm. Tập thơ Điêu tàn ra đời lúcnhà thơ 17 tuổi đã rất được chú ý. Tuy nhiên, hồn thơ ấy cũng từng có lúc rơi vào sự bế tắc chung của nhiều nhà thơ mới giai đoạn 1930 – 1945. Cách mạngtháng Tám thành công đã thực sự trở thành sự kiện bước ngoặt giải thoát những bế tắc ấy và mở ra cho nhà thơ con đường sáng tạo rộng rãi. Từ sau cách mạngtháng Tám – 1945, nhất là từ sau năm 1954, thơ Chế Lan Viên ngày càng phong phú, đa dạng, có những đóng góp xuất sắc vào sự phát triển của nền thơ ca hiệnthực xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tập thơ đầu tiên là Điêu tàn đã bộc lộ những nét riêng của tư duy và cảm xúc Chế Lan Viên, nhưng phải đến Ánh sáng và phù sa 1960 thì phong cáchcủa nhà thơ mới thực sự hình thành rõ nét. Tuy phong cách đó khơng hồn tồn cố định, theo từng chặng đường thơ có sự vận động, nhưng vẫn có thể nhận ramột số nét nổi bật.1. Thơ mang tính lý luận, giàu suy tưởng và triết lý. 2. Thơ thể hiện sự sáng tạo hình ảnh độc đáo.
3.2.1 Thơ Chế Lan Viên – thơ lý luận, giàu suy tưởng và triết lý:
Thơ Chế Lan Viên mang tính lý luận vì một lý do rất riêng: Ôngthường bàn về thơ bằng thơ. Tức là dùng thơ vào công việc của lý luận. Ở Việt Nam, kiểu thơ này, Chế Lan Viên là người mở đầu. Nhà thơ đã đề cập nhiều suynghĩ, quan niệm về các phương diện của công việc sáng tạo và tiếp nhận thơ, của vai trò, sứ mệnh thơ ca trong đời sống… trong những trang sổ tay thơ.+ Nói về nguồn cảm hứng sáng tạo thơ ca: Mỗi ngày gặp một người – họ là một mảnh của thiên tài nhân loạiMáu và mồ hôi của người đúc nên bao hình ảnh ngữ ngơn Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vãiHãy nhặt những chữ của đời mà góp nên trang. Chế Lan Viên khơng nói gì khác ngồi một ngun lý căn bản: hiện thựcđời sống là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác; là đối tượng, là chất liệu cho tác phẩm thơ ca. Nhà thơ có đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy đời sốnglàm điểm tựa mới mong làm ra được cái gì có giá trị:Dù cho là Phật Thì trước khi ngồi lên tồ sen hư ảoCâu thơ cũng phải xuất gia đi ra từ bốn cửa ô cuộc đời.10Hiện thực ấy là tiếng sóng, màu mây, sắc nắng, bước chân của đồn qn, tiếng rì rầm của nhà máy, nhịp sống ở công trường, những đổi thay củathời cuộc:Bài thơ mặt bể gọi đi xa Phải hiểu màu mây và sắc nắngNgàn sao thời cuộc chói trên đầu Vĩ độ mù sương, kinh độ sángSao ta chỉ biết có thuyền ta Giương chiếc buồm con như chiếc bóngHai câu sau của đoạn thơ là cả một sự trải nghiệm. Mỗi con người có thểcoi là một vũ trụ thu hẹp. Và người nghệ sĩ, chỉ cần lắng nghe phần sâu kín của con người mình cũng có thể có nhiều chất liệu cho thơ. Nhưng cái phần sâu kínấy chẳng qua chỉ là cái vốn dự trữ, nhỏ nhoi, dễ vơi cạn. Nói khác đi, cái Tơi tự khép kín, tách biệt với cuộc đời thì chỉ còn là ao tù so với đại dương bao la.Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp… Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép. Nên sống và lắng nghe đời sống bên ngồi mình thơ ca mới có thêm dathịt, có thêm âm vang, hình sắc:Sợi chỉ lòng anh nghèo có một màu Xe vào cái đa sắc của đời nên chói lọi.+ Nói về con đường thơ: Hướng đi nổi bật của Chế Lan Viên trong sáng tác thơ là:Thơ không phải đưa ru mà còn thức tỉnh Khơng phải chỉ “ơ hời” mà còn đập bàn, qt tháo, lo toanNó là cả một quá trình nghiền ngẫm, thai nghén, tái tạo chứ không đơnthuần là thứ cảm xúc nhất thời, hời hợt. Bởi nhiều hiện thực của đời sống vốn thơ mộc, nếu khơng có sự sâu sắc trong tâm hồn nghệ sĩ cho nó sự sống bền lâuthì nó sẽ thành vô nghĩa:Anh là người định vực sự sống ba chiều Lên trang thơ hai mặt phẳngSao trên trời mỗi đêm cần anh thắp lại Sông Ngân Hà chảy nhờ anh mà nó chảyNhững ngơi sao trên trời đổi ngơi nhờ anh mà nó đổi ngơi …Nếu anh ghi lại thì dòng sơng kia ở lại Và anh để đời trơi xi, thì nước cũng trơi xi.11Chế Lan Viên cũng đòi hỏi vai trò của trí tuệ trong thơ. Đây là điểm độc đáo. Vì xưa nay, người ta đã nói nhiều về vai trò của cảm xúc trong thơ, vàdường nghiêng về phần đó. Chế Lan Viên muốn khám phá sự vật “ở cái bề sâu, ở cái bề xa”. Vì thế nhà thơ ln vận dụng trí tuệ trong thơ. Nguyễn Văn Longnói: “Trong sự đa dạng của thơ Chế Lan Viên thì sức mạnh và vẻ đẹp nổi bật ở chất trí tuệ”. Trí tuệ ấy hướng tới nắm bắt cái ý nghĩa triết lý hàm ẩn trong mỗihiện tượng, và bằng liên tưởng phong phú, nhà thơ liên kết chúng lại trong nhiều mối tương quan, từ đấy làm nảy sinh ý nghĩa sâu sắc. Cuộc sống trong thơ ChếLan Viên, vì thế khơng phải chỉ như nhà thơ xúc cảm về nó mà còn như nhà thơ suy nghĩ về nó. Và cuộc sống đi vào thơ Chế Lan Viên vì thế cũng ít đi phần cụthế, chi tiết mà được làm giàu thêm ở sự hư ảo biến hoá, ở tầm khái quát, triết lý.Cố nhiên thơ Chế Lan Viên không chỉ là trí tuệ. Thiếu cảm xúc khơng thểcó thơ. Trong Sổ tay thơ, nhà thơ cũng nói rất rõ:Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thơi Còn một nửa cho mùa thu làm lấyCái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá Nó khơng là anh nhưng nó là mùa+ Nói về hình thức của thơ: Chế Lan Viên cho rằng nội dung có trước và quyết định hình thức. Nhưngnội dung khơng tồn tại bên ngồi hoặc bên trên hình thức mà bằng hình thức và trong hình thức. Một nội dung có thể và cần được thể hiện bằng nhiều hình thứckhác nhau. Cái phong phú, đa dạng của hình thức chính là ở chỗ đó:Cuộc đời cần đẻ ra nhiều hình thức Dù là ngọc thì cũng có nhiều viên ngọcChứ đâu phải xanh xanh vĩnh viễn một màu trời Chăm lo đến hình thức, cân nhắc, tìm tòi, sáng tạo về ngơn ngữ, trả lạicho ngôn từ cái thanh sắc nguyên sơ, làm cho nó phập phồng chất sống là điều Chế Lan Viên coi trọng. Dẫu vậy, nhà thơ cũng lưu ý không lấy kỹ xảo mà bùcái hụt hẫng của tư tưởng, tình cảm, của vốn sống, của cảm hứng:Dù anh khơng làm xiếc Cũng phải căng thẳng dây tâm hồn anh lên mà đi qua trên vực ngôn từCăng cái dây hình ảnh ngữ ngơn ngang qua vực tâm hồn sâu thẳm Cho mỗi bước, mỗi bước của anh đều thận trọngKhông bao giờ anh ở độ trùng dây12Cả dây tâm hồn, dây hình ảnh ngữ ngơn đều phải căng lên như nhau. Cũng có nghĩa cả lao động nghệ thuật và sự vận động của nội tâm đều không thểtrùng, khơng thể lơi… Vì chẳng có gì sẵn cả. Cái điều cần nói, muốn nói có thể đã có, nhưng nói ra thế nào thì tất cả còn ở phía trước.Do quan niệm riêng hình thành nên một nét phong cách thơ mang đậm tính lý luận như vậy nên dễ nhận thấy thơ Chế Lan Viên đậm màu sắcsuy tưởng và giàu tính triết lý. Đây là nét phong cách nổi bật của thơ ơng.Như đã nói ở trên, Chế Lan Viên rất chú trọng vai trò của trí tuệ trong thơ, nên thơ ơng thường xuất phát từ những cái cụ thể, bình dị của cuộc sống nhưngkhông nhằm đề diễn tả cái cụ thể, mà khai thác những liên tưởng, tưởng tượng vô cùng phong phú để từ cái cụ thể mà tạo ra biểu tượng. Bài thơ Tiếng hát contàu có thể đưa ra để làm một ví dụ. Tồn bộ bài thơ được xây dựng trên cơ sở hệ thống hình ảnh lấy từ trong thực tế, rất cụ thể: Con tàu, vầng trăng, cuộc khángchiến của dân tộc, người du kích, em liên lạc, bà mế già, bản làng, rừng núi, cỏ cây, hoa lá, cánh kiến hoa vàng, chim rừng, chiếc nôi, dòng sữa… Nhưng tất cảđều đã mang tính biểu tượng. Cái này là biểu tượng của một khao khát đi xa, hướng tới những chân trời mới của cuộc đời, của Tổ quốc; cái kia là biểu tượngcủa ân tình, ân nghĩa; cái khác lại là biểu tượng cho nhận thức sâu sắc về sức mạnh của nhân dân – ngọn nguồn của nghệ thuật chân chính…Để nâng cái cụ thể lên tầm khái quát, triết lý, Chế Lan Viên thường khai thác triệt để mối tương quan đối lập. Nguyễn Văn Long cũng đánh giá: “Tư duythơ CLV đặc biệt nhạy bén với việc khai thác các tương quan đối lập”. Nhà thơ thường nhìn sự vật trong các mặt đối lập, để làm nổi rõ bản chất và quy luật củachúng, gây được những hứng thú thẩm mỹ bất ngờ cho người đọc. Những mối quan hệ đó là: quá khứ – tương lai, dân tộc – nhân loại, cái bi – cái hùng, yêuthương – căm thù, tĩnh – động, còn – mất, nội dung – hình thức, chủ thể – khách thể…Có thể bắt gặp rất nhiều hình ảnh đối lập ttrong thơ Chế Lan Viên: – Đất nước mênh mông – Đời anh nhỏ hẹp.- Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời conHạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.và Người Bác Hồ: Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể13Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệNhững con đường cách mạng đang tìm Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nướcCây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốcChẳng n lòng khi ngắm một nhành hoa – Xưa phù du nay đã phù sa- Xưa bay đi mà nay không trôi mất – Một cái hơn cân vạn ngày đạn lửa…. Những hình ảnh được đặt trong thế tương phản như thế có hiệu quả rất rõvề mặt nhận thức. Và như thế, nó tạo cho thơ Chế Lan Viên một màu sắc, một giọng điệu khác hẳn với những người khác cũng như làm phong phú thêm chothơ ca dân tộc.3.2.2 Thơ Chế Lan Viên – thơ của sự sáng tạo hình ảnh: Điều này không đơn thuần chỉ là thủ pháp mà nằm trong tư duy thơ CLV.Có thể nói, CLV suy nghĩ, cảm nhận mọi vấn đề của cuộc sống bằng hình ảnh. Thế giới nghệ thuật của CLV được tạo nên bởi vơ số hình ảnh: hình ảnh thực,hình ảnh tượng trưng, hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh đơn lẻ… nhưng nhiều hơn là hình ảnh được liên kết, xâu chuỗi thành từng chùm, từng hệ thống tạo nên nhữngấn tượng bất ngờ.Ví dụ: Những đảo đá Hạ Long:Những đêm trăng đá suy nghĩ như người Khi xuân đến, đá động lòng thương nhớKhi hè gọi, đá xơn xao trong dạ đá Hoa phong lan tím hống rủ bướm từng đơiBiển: Xanh biếc màu xanh,bể như hàng ngàn mùa thu qua còn để tâm hồn nằmđọng lại Sóng như hàng nghìn trưa xanh, trời đã tan xanh ra thành bể và thôi khôngtrở lại làm trời Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biếnthành con gái14Mỗi đêm hè, da thịt sóng sinh đơi Về Tổ quốc:Trên Tổ quốc vang ngồi bờ cõi Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồngTa mọc dây trước mắt nhìn nhân loại Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùngVề tình yêu: – Cái rét đầu mùa anh rét xa emĐêm dài lạnh, chăn chia làm 2 nửa. Một đắp cho em ở vùng sóng bểMột đắp cho mình ở phía ko em – Anh cách xa em như đất liền xa cách bểNửa đêm nằm lắng sóng phương emEm thân thuộc sao thành xa lạ thế Sóng gặp em rồi sóng laị đẩy xa thêmAnh ko ngủ phải vì em đang thức Một trời sao rực cháy giữa đôi ta ?Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gióCho sao trời n rụng một đêm hoa – Anh nhớ em như đông về nhớ rétTình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc….. Tư tưởng và cảm xúc của nhà thơ nhập vào hình ảnh và ngôn ngữ, nhưlinh hồn và thể xác, như ánh sáng và sức nóng của một ngọn lửa. Khơng phải mọi lúc, nhưng không hiếm trường hợp Chế Lan Viên đã đạt được sự hài hoàmáu thịt và bền vững ấy trong thơ.= Trí tuệ, sắc sảo, nhạy bén, cùng với một vốn văn hoá vững vàng, CLV đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo, thể hiện tâm huyết tìm tòi, đổi mớinghệ thuật thơ ca, đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển phong phú, có chiều sâu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.-15LUYỆN ĐỀ VỀ PHONG CÁCH SÁNG TÁCĐỀ BÀI: Trong bài Ngoại cảnh trong văn chương – 1935, ơng HồiThanh viết: “Nhà văn khơng có phép thần thơng để vượt ra ngồi thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng”.Anh chị hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.GỢI Ý:16