TRIẾT LÝ ĐẠO CAO ĐÀI
Nói về Triết lý đạo Cao Đài, quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển được Hội Thánh phát hành vào năm 1927, ngoài phần giáo lý đạo Cao Đài, nó còn chứa đựng một hệ thống tư tưởng về vũ trụ và nhơn sinh hết sức rõ ràng do Đức Chí Tôn dạy dân Việt ngay trên đất nước Việt Nam. Nay xin đươc tóm tắt như sau: I – VỀ VŨ TRỤ QUAN: Đức Chí Tôn dạy : “ Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế Giới, khí Hư Vô sinh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi chung là Chúng Sanh.” Việc hình thành Càn Khôn Thế Giới nói trên trải qua hai thời kỳ: Tiên Thiên Đại Đạo và Hậu Thiên Đại Đạo: a/ Thời Kỳ Tiên Thiên Đại Đạo: Từ Hư Vô biến dịch đến sự phân định Trời đất. * Hư Vô sinh Thái Cực: Thời nguyên thủy, cả một không gian mờ mờ, mịt mịt …chứa đựng khí Hư Vô. Khí Hư Vô dần dần đông tụ lại thành một khối Đại Linh Quang, đó là Đức Chí Tôn, là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vào một thời điểm đã định, khối Đại Linh Quang nầy nổ tung bắn ra một điểm Linh Quang sáng ngời. Đó là Thái Cực, là ngôi của Đức Chí Tôn ngự. *Thái Cực sanh Lưỡng Nghi: Từ Thái Cực Đức Chí Tôn phóng ra một luồng ánh sáng phân định âm dương. Đó là Lưỡng Nghi:
Nghi Dương tức là Dương Quang do Đức Chí Tôn chưởng quản. Nghi Âm tức là Âm Quang vì chưa có người chưởng quản nên Đức Chí Tôn hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Âm Quang. Âm, Dương có các đặc tính : Dương nhẹ và động nên bay bổng lên cao thành Trời. Âm nặng và tĩnh nên trầm xuống thấp thành Đất. Từ chỗ cao, thấp, nặng nhẹ …nầy mới có được Thế giới vô hình và thế giới hữu hình.Từ đó thời Tiên Thiên Đại Đạo chấm dứt để chuyển sang thời Hậu Thiên Đại Đạo. b/ Thời Kỳ Hậu Thiên Đại Đạo : là thời kỳ cấu tạo Càn Khôn vạn vật hữu hình. * Từ Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng và Tứ Tượng biến thành Bát Quái: Theo nguyên lý thiên nhiên, trong dương có âm và trong âm có dương nên âm dương có sự xoay chuyển không ngừng và lại mang tính ái lực hòa hợp ắt phải gặp nhau .Âm dương gặp nhau tạo thành Tứ Tượng. Tứ Tượng quay cuồng văng tỏa ra hàng nhiều triệu quả tinh cầu thế giới. Tứ Tượng biến thành Bát Quái rồi sanh ra muôn loài vạn vật. Tóm lại, tất cả mọi biến hóa kể trên tạo ra hình ảnh của vũ trụ như sau: c/ Hình ảnh của Vũ Trụ trong không gian: Đại để, vũ trụ được phân chia thành hai thế giới : Thế giới hữu hình: gồm có 72 địa cầu và 3.000 tinh tú. Tổng cộng 3.072 thế giới có sinh vật sanh sống. Qủa địa cầu mà loài người đang ở là địa cầu thứ 68 thuộc hệ thống 72 địa cầu. Thế giới vô hình: gồm có Tam thập lục thiên ( 36 tầng trời ) và Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí và không phải là tinh tú.
II –VỀ NHÂN SINH QUAN Nhân sinh Quan đạo Cao Đài giải đáp minh bạch về con người như sau : A – Nguồn gốc của con người : Con người ở tại quả địa cầu thứ 68 nầy có 3 nguồn gốc khác nhau: nguyên nhơn, hóa nhơn và quỉ nhơn. 1/ Nguyên nhơn: là các bậc Phật, Tiên, Thánh …giáng trần để dộ dẫn chúng sanh. 2/ Hóa nhơn : chỉ sự chuyển kiếp từ đất đá thành thảo mộc, thảo mộc thành thú câm, thú cầm thành người. Tại sao có sự chuyển kiếp lạ lùng như thế ? Thánh ngôn nói rõ: Thầy lại phân tánh Thầy mà sinh ra vạn vật: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm , gọi chung là chúng sanh. Chi chi hữu sanh cũng bởi do Chơn linh của Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống cho nên thảo mộc cũng thọ ở Đức Chí Tôn một điểm nguyên hồn và có thể trở thành con người qua sự chuyển kiếp. Thảo mộc đã chuyển kiếp thành người như thế nào ? Thảo mộc chỉ duy nhứt có một phần hồn gọi là sanh hồn. Sau muôn ngàn kiếp, thảo mộc tấn hóa thành thú câm. Thú cầm có thêm một phần hồn nữa: ngoài sanh hồn còn có giác hồn. Thú cầm tiếp tục chuyển kiếp, tấn hóa qua muôn ngàn kiếp mới tiên đến bậc loài người. Khi thành người, con người có đầy đủ 3 hồn: Sinh hồn, giác hồn và linh hồn. 3 / Quỉ nhơn : Hai hạng nguyên nhơn hoặc hóa nhơn nói trên, trong kiếp sống làm nhiều điều ác, phạm thiên điều… khi chết linh hồn bị đọa vào hàng Qủi vị thành Qủi hồn. Các Qủi hồn đầu kiếp làm người nơi cõi trần để trả quả , được gọi là Quỉ nhơn.
B – Mỗi con người đều có 3 thân xác: Theo Giáo lý Cao Đài, Đức Chí Tôn cho biết, mỗi con người của chúng ta đều có đủ 3 thân xác: a/ Đệ nhứt thân xác : hay xác phàm do cha mẹ sinh ra. b/ Đệ nhị xác thân : hay chơn thần là một chất khí có thể thấy được và cũng không thể thấy được nên thuộc về bán hữu hình. Phật Mẫu thu lằn Dương Quang của Đức Chí Tôn phối hợp với Âm Quang của Phật Mẫu tạo ra Chơn Thần cho mỗi con người. Vậy Phật Mẫu là Bà Mẹ Thiêng Liêng của Đệ Nhị Xác Thân. Khi Chơn thần xuất ra khỏi xác phàm thì có hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Thánh ngôn dạy: Chơn Thần là xác thân thiêng liêng. Khi còn ở xác phàm thì khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm níu kéo. Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu, khi còn xác phàm nơi mình, như đắc đạo có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy. c/ Đệ tam xác thân : hay Chơn linh hay Linh hồn là điểm Linh quang của Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh Quang của Ngài, ban cho mỗi người để gìn giữ sự sống và dạy dỗ nữa. Vì nguồn gốc Chơn linh của con người là một phần chiết ra từ Chơn linh của Đức Chí Tôn ở cõi Thiêng Liêng nên khi xác phàm chết thì Chơn linh tìm đường trở về gốc cũ ở cõi Thiêng Liêng. Đó chính là sự qui hồi cựu vị mà người tín đồ Cao Đài thường dùng để nói rõ sự trở về của một người sau khi từ giả cõi trần ! Tuy nhiên vì Chơn thần luôn luôn vịn víu Chơn Linh nên nếu Chơn Thần vì nhiễm trần, không thanh nhẹ thì khó mà trở về cựu vị được. Thế là phải luân hồi , phải trả nghiệp chướng đã tạo nên trong kiếp sống.
III – SAU CÁI CHẾT, CÁI GÌ SẼ TIẾP NỐI: Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi xin trích đoạn lời Đức Chí Tôn dạy như sau: “ Các con đã sanh tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chét cũng tại thế nầy. Thầy hỏi: Các con chết rồi, các con ra thế nào? Các con đi đâu ? Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bực Đế vương nơi quả địa cầu nầy, chưa đặng vào hạng chót của quả địa cầu 67. Trong quả địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng lên hoài, cho tới Đệ Nhứt Cầu, Tam Thiên Thế giới, thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu rồi mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới được đến Bạch Ngọc Kinh là nơi đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy. Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị. Vậy Thầy lại dặn các con : Nếu kẻ không tu, làm đủ bổn phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy.” Nay vào thời buổi Hạ Ngưon Mạt Kiếp, là cơ tận diệt, đồng thời cũng là cơ tái tạo, Đức Chí Tôn khai mở mối đạo Cao Đài với đặc ân Đại Ân Xá Kỳ III và khẳng định như sau : “ Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế giới, nếu biết ngộ một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng “ Nói tóm lại, phần Vũ Trụ quan và Nhân Sinh Quan của một tôn giáo mà chỉ tóm gọn trong đôi ba trang giấy chắc chắn hãy còn nhiều vấn đề cần thiết phải diễn dịch rộng hơn. Chúng tôi xin hẹn có dịp khác sẽ tiếp tục trình bày thêm . Hiền Tài Phạm văn Khảm Biên soạn